You are not connected. Please login or register

Thơ Đường và giai thoại thơ Đường

4 posters

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Thơ này của Trẫm biết đưa ai xem

Thơ Đường và giai thoại thơ Đường Ly-The-Dan

Lý Thế Dân


Đường Thái tông Lý Thế Dân làm mười bài thơ Đế kinh, bài tựa có đoạn rằng "Ta lúc việc nước nhàn rỗi, nghỉ ngơi ở văn chương, xem viếc Đế vương các đời, ngẫm việc trị bình trước mắt...ngậm ngùi hoài cổ, nhớ bậc triết nhân, muốn nối phong thái Thuấn Nghiêu, bỏ tệ đoan Tần Hán. Dùng văn chương đẹp đẽ, đổi lời lẽ mo màng, cốt ở lòng người, chẳng phải là khó. Cho nên xem văn giáo ở sáu kinh, xét võ công nơi bảy đức, đài các xa nơi nước lửa, vàng đá hoà với lòng người, giữ mực chỗ trung hoà, không rơi vào phóng đãng thì ngòi rãnh đủ vui cần gì sông biển, gác Lân đủ ngắm cần gì núi gò, người trung đủ giao tiếp cần gì thần tiên, kinh đô đủ dạo chơi cần gì tiên giới? Nếu loại bỏ quả tìm hoa, phóng tâm theo ý, làm loạn đạo lớn thì bậc quân tử lấy đó làm điều xấu hổ. Vì vậy làm thơ Đế kinh để nêu rõ ý nguyện về văn chương nhã chính mà thôi".
Đương nhiên, một ông vua như Lý thế Dân phải hướng văn nghệ vào những con đường có lợi hay ít ra là vô hại đối với quyền lực vương triều, đây là yếu tố quy định tính mục đích rất minh bạch của bài tựa nói trên. Có điều phía trên (hay phía dưới) cái ý thức dùng văn nghệ phục vụ chính trị ấy vẫn có một điểm khả thủ, đó là theo tác giả, văn chương phải vì thế đạo, thi sĩ phải vị nhân sinh. Và hãy xem cái thực tế về thế đạo và nhân sinh của ông vua có được giang sơn nhờ thanh gươm yên ngựa này qua bài thơ

Nhược liễu minh thu thiền
( Ve thu kêu trên liễu yếu )

Tán ảnh ngọc giai liễu
Hàm thuý ẩn minh thiền
Vi hình tàng diệp lý
Loạn hưởng xuất phong tiền

Bài Dịch:

Bóng liễu qua thềm ngọc
Ve kêu sắc biếc tràn
Nhỏ nhoi nằm dưới lá
Trước gió giọng ran ran

Nhìn về phương diện nghệ thuật, đây cũng là một bài thơ hay. Nhưng tiếng ve ran trước gió theo bóng liễu phất qua thềm ngọc kia vẫn có một cái gì đó không bền vững, nhất thời mong manh. Dường như Lý Thế Dân trị vì mà không làm chủ được thế đạo và nhân sinh trong cương giới của Đường triều. Hãy thử đọc thêm một bài nữa, bài

Bạch nhật bàng tây sơn
( Mặt trời lặn xuống non tây )

Hồng luân bất tạm trú
Ô phi khởi phục đình
Nham hà tiệm tiệm lạc
Khê âm thốn thốn sinh
Hoắc diệp tuỳ quang chuyển
Qùy tâm trục chiếu khuynh
Vãn yên hàm thụ sắc
Thê điểu tạp lưu thanh

Bài Dịch:

Vầng đỏ chẳng thôi chuyển
Bóng ô đâu ngớt bay
Gò cao màu ráng lịm
Suối biếc bóng râm dài
Lá đậu xoay theo ánh
Hoa quỳ nghiêng hướng tây
Cây chiều in sắc khói
Chim ngủ rộn theo bầy

Bài thơ không chỉ đơn thuần tả cảnh mặt trời lặn phía non tây, vì đối một ông vua như Lý Thế Dân, việc chọn một đề tài như vậy còn là một cuộc tự trắc nghiệm về tri thức và tinh thần, một sự tự thử thách về quyền uy và tâm lý. Và cũng tương tự bài Nhược liễu minh thu thiền tả tiếng ve mùa thu, bài Bạch nhật bàng tây sơn tả mặt trời phía tây này là một thành công của Lý Thế Dân thi sĩ nhưng là một thất bại của Đường Thái tông hoàng đế. Tại chỗ giao thời trên vòng tuần hoàn ngày đêm của tự nhiên - ngoại giới nói trên, con mắt của ông vua sáng lập triều Đường quả cũng bắt gặp được lòng trung thành của cánh hoa quỳ luôn hướng theo ánh nhật. Nhưng rõ ràng đoá hướng dương cô độc ấy vẫn bị chìm lấp bởi những ánh chiều bóng râm, những tiếng chim sắc khói cứ tràn ra khi nắng tắt, và hoàn toàn không giữ được cho mặt trời không rơi xuống non tây...dướng như một khi đối diện với tạo vật và tự ngắm vào lòng mình, người đứng đầu của Trung Hoa, vị chúa tể của Đường triều này đều cảm thấy bất an, bất lực trước một cái gì đó không thể nắm bắt và nhận thức, không thể làm chủ và chế ngự. Có lẽ đây là chỗ bắt đầu của những thất bại tại ngai vàng và cô đơn trong quyền lực ; cố nhiên là của mọi ông vua.
Có một lần Đường Thái tông làm thơ theo thể Cung từ rồi sai văn thần là Ngu Thế Nam hoạ. Thế Nam nói " Bệ hạ làm thơ rất hay, song đó không phải là thể thơ nhã chính. Người trên mà yêu thích, kẻ dưới sẽ làm quá. Thơ này mà truyền ra, văn phong trong thiên hạ sẽ rối loạn, thần thật không dám phụng chiếu". Về sau Thái tông làm một bài thơ ghi lại việc hưng phế thời cổ, làm xong lại than rằng "Chung Tử Kỳ chết Bá Nha không rảy dàn nữa. Thơ này của Trẫm biết đưa ai xem", rồi ra lệnh cho Thế Nam đốt đi.
Chủ trương làm thơ nhã chính vì nhân sinh và cho thế đạo, Lý Thế Dân đã phải nhượng bộ quan niệm chính thống đương thời khi Ngu Thế Nam không chịu hoạ thơ ngự chế. Nhưng ngay cả với những bài thơ nhã chính, ông vua thi sĩ này cũng có những lúc thấy mình thất bại tại ngai vàng và cô đơn trong quyền lực. Và đó không phải là điều hài hước, vì khám phá đời sống bằng tư duy nghệ thuật, người ta sẽ nhận ra một chân lý, là thế đạo và nhân sinh tự chúng đều vượt ra khỏi phạm vi nhận thức của mọi vua chúa cũng như quyền lực của mọi vương triều.

( Trích Giai thoại thơ Đường )

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Một lần triệu dễ đâu dời chân ngay

Phủ Sùng Thánh ở Trường An có Trang điện (điện trang điểm) của hiền phi họ Từ. Đường Thái tông có lần triệu, lâu không thấy tới, vua nổi giận. Phi vì thế dâng bài thơ :

Triêu lai lâm kính đài
Trang bãi độc bồi hồi
Thiên kim thuỷ nhất tiếu
Nhất triệu cự năng lai?

Bài dịch

Sáng ra bước tới gương đài
Điểm trang xong, ngắm dung nhan bồi hồi
Ngàn vàng mới một nụ cười
Một lần triệu dễ đâu dời chân ngay?

Lời thơ rõ ràng là của một sủng cơ, nghe vừa nũng nịu vừa kiêu kỳ. Song có lẽ hôm ấy trông nàng đẹp thật và chắc vì vua cũng đang sốt ruột, nên bèn không giận nữa. Vả lại nàng họ Từ không những có sắc đẹp mà còn là một tài nữ trong hàng cung phi của Đường Thái tông.
Hiền phi họ Từ tên Huệ , người hồ châu. Sinh ra năm tháng đã biết nói, lên bốn tuổi hiểu sách Luận ngữ, đến tám tuổi thì biết làm văn. Cha là Hiếu Đức có lần thử tài bảo làm bài Tiểu sơn ( núi nhỏ) theo thể Ly tao, nàng đọc rằng:

Ngưỡng u nham nhi lưu niệm, phủ quế chi dĩ ngưng tưởng
Tương thiên linh hề thử ngộ, thuyên hà vi hề độc vãng?

Ngước non sâu mà lệ chảy, vỗ cành quế mà nghĩ ngợi
Lấy ngàn tuổi chừ gặp đây, Vua việc gì chừ riêng tới?

Hiếu Đức sợ lắm, biết không thể giấu. Người đương thồi bàn tán với nhau, đồn đại tới triều đình. Thái tông nghe được, triệu nàng vào cung phong làm tài nhân, kế thăng lên bậc Dung thừa. Năm Trinh Quán thứ 23 (649) nàng dâng sớ xin thôi việc binh, bãi lao dịch, trong có những câu như "kẻ có nghiệp lớn dễ kiêu căng, mong bệ hạ khó chỗ ấy; kẻ giỏi mở đầu khó kết thúc, mong bệ hạ dễ chỗ ấy...Định ra phép tiết kiệm, còn sợ làm xa xỉ ; định ra phép xa xỉ, lấy gì ngăn đời sau?" Năm Vinh Huy thứ 1 (650) chết, được tặng là hiền phi. Em là Tề Tham, con là Kiên đều nổi tiếng có học vấn.
Thái tông Lý Thế Dân là vị vua sáng lập kiêm thủ thành của Đường Triều, ắt phải có thần liêu tài giỏi trung thành phò tá, trong có hậu phi đoan chính hiền thục khuyến khích, điều đó đương nhiên khỏi bàn. Đáng nói là buổi ấy nhà Đường mới dựng, đời loạn vừa yên nên hạng danh sĩ tài nữ phần nhiều đều có cốt cách ngang tàng cứng cõi; đến như một cô gái nhỏ cũng có khí phách, vịnh núi non thì không cần có vua, làm cung phi thì không cần gấp đi hầu. Được sống giữa những con người xuất chúng và trong một phong khí khoáng đạt như vậy, Lý Thế Dân quả là một ông vua may mắn làm sao !

(Trích Giai thoại thơ Đường)



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Wed Oct 14, 2009 9:05 pm; sửa lần 5.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Ít khi không ràng buộc ta bằng lễ

Đường Thái tông có lần họp các quan ăn yến ở hồ Tích Thuý trong cung Lạc Dương, đặt ra mấy mươi đề tài vịnh sử, chia cho mỗi người làm một bài.Thừa tướng Nguỵ Trưng làm bài Phú Tây Hán ( Thuật chuyện Tây Hán ) vịnh Hán Cao tổ rằng :

Thụ hàng lâm Chỉ Đạo
Tranh trưởng thú Hồng Môn
...Chung tạ Thúc Tôn lễ
Phương tri hoàng đế tôn

Bài dịch

Nhận hàng ra Chỉ Đạo
Nhường mạnh hội Hồng Môn
...Lễ nhạc theo chàng Thúc
Mới hay ngôi đế tôn

Nội dung bài thơ chỉ tóm tắt sự nghiệp của Hán Cao tổ Lưu Bang qua các sự kiện quan trọng như tiếp nhận vua Tần Tử Anh ra hàng, hội yến với Hạng Vũ để thương lượng..., nhìn chung không có gì đáng chú ý. Chỉ có hai câu cuối nhắc việc Hán Cao tổ dùng Tôn Thúc Thông chế định lễ nhạc mới là quan trọng. Vì lúc bấy giờ nhà Đường vừa yên định được thiên hạ, Nguỵ Trưng sợ Đường Thái tông tự mãn về võ công, nên nhắc nhở nhà vua phải sửa sang văn giáo, dùng lễ nhạc để định thái bình chứ không thể cậy võ binh uy, lấy võ công để giữ ngôi báu. Thái tông xem thơ nói "Lời của Trưng ít khi không ràng buộc ta bằng lễ". Dĩ nhiên, chữ lễ đây không chỉ mang ý nghĩa là chuẩn mực các hệ thống đạo đức hay lối sống trong sinh hoạt, mà còn cả hệ thống chuẩn mực nhận thức và ứng xử chính trị mà triều đình đòi hỏi ở một ông vua.
Nguỵ Trưng tự Huyền Thành, người Nguỵ Châu, học rộng biết nhiều. Khi nhà Tuỳ loạn, giả làm đạo sĩ vân du tìm minh chúa, buổi đầu theo Lý Mật, sau về theo Cao tổ Lý Uyên. Đến đời Thái tông làm quan Gián nghị đại phu, kiểm hiệu Thị trung. Lúc ấy Lệnh Hồ Đức Phân, Khổng Dĩnh Đạt soạn sử từ đời Chu đến đời Tuỳ, Trưng phụng mệnh tổng duyệt, sửa chữa rất nhiều, người đương thời khen là viết sử giỏi. Sách làm xong được phong làm Quang lộc đại phu, phong tước Ngạc quốc công. Trưng là người trầm tĩnh, trước mặt vua dám can gián những việc lớn, Thái tông nhiều phen nổi giận song Trưng vẫn thản nhiên tâu bày, vua vì thế nguôi dần, thường nói "Người ta vẫn nói Trưng ngạo nghễ, nhưng ta xem có vẻ yếu ớt như đàn bà". Trưng có lần hỏi "nghe nói bệ hạ có ý đi Quan Nam, nhưng chuẩn bị xong thì đình, vì sao vậy?" Thái tông đáp " Sợ khanh can nên đình lại cho rồi ". Vua có con chim đẹp, có lần đang chơi đùa cho nó nhảy nhót trên vai, nhìn ra thấy Trưng, vội giấu vào trong ngực áo. Trưng vào tâu hết chuyện này đến chuyện nọ rất lâu, con chim chết ngạt. Văn Đức hoàng hậu là em gái Trưởng Tôn Võ Ky, người rất hiền đức chết sớm. Thái tông thương tiếc không nguôi, táng ở Chiêu Lăng, ngoài Hiến Lăng của Đậu Thái hậu ( vợ Đường Cao tổ Lý Uyên, mẹ Đường Thái tông) hơn một dặm, cho xây một toà Tằng lâu quản trong ngự uyển, thường lên đó ngắm nhìn để tưởng nhớ. Có lần dắt Trưng cùng lên, chỉ cho xem, Trưng nói "Thần mắt kém chẳng thấy gì cả". Vua chỉ lại, Trưng nói "tưởng bbẹ hạ nhìn về Hiến Lăng, chứ Chiêu Lăng thần thấy rồi". Thái tông khóc mà huỷ Tằng lâu quán.
Khi Nguỵ Trưng chết, Thái tông nói "lấy đồng làm gương, sửa được mũ áo; lấy sử làm gương, hiểu được hưng phế ; lấy người làm gương, biết chuyện mất còn. Trưng chết đi Trẫm mất một tấm gường rồi". Lại làm bài thơ thương tiếc như sau:

Vọng vọng tình hà cực
Lãng lãng lệ không huyễn
Vô phục tích thời nhân
Phương xuân cộng thuỳ khiển

Bài dịch

Dằng dặc lòng sầu khôn dứt được
Ròng ròng lệ thảm cứ tuôn rơi
Người xưa chẳng thể tìm đâu nữa
Xuân tới cùng ai dạo cảnh chơi

Trưng làm thừa tướng , tự cho là trên đời ít có dịp vua tôi gặp gỡ như vậy nên đem hết sở học ra giúp Thái tông, tấu sớ về việc trị nước dâng lên có tới hơn hai trăm bài, đều được cho thi hành.

(Trích Giai thoại thơ Đường)



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Wed Oct 14, 2009 9:02 pm; sửa lần 2.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Trần Tử Ngang nhà thơ khai sáng

Trần Tử Ngang tự Bá Ngọc, người Từ Châu. Tính hẹp hòi hấp tấp song lại ưa giúp đỡ, trọng kết giao, cùng với Lục Dư Khánh, Vương Vô Cạnh, Phòng Dung, Thôi Thái Chi, Lư Tàng Dụng, Triệu Nguyên chơi với nhau rất thân. Lúc nhà Đường mới trị vì, văn chương còn theo dư phong của Từ Tăng, Dữu Tín, chỉ bó hẹp trong các đề tài liên quan tới sinh hoạt của cung đình và giới quý tộc; Tử Ngang khởi xướng việc thay đổi cho thành nhã chính, chống lại các biểu hiện lệch lạc của chủ nghĩa hình thức kiểu nghệ thuật vị nghệ thuật, góp phần quan trong việc đặt nền móng triết học và mỹ học nhân đạo và khai phóng của thơ Đường. Có thể coi bài Đăng U Châu đài ca (bài ca khi lên đài U Châu) của ông là lời phủ nhận giá trị của loại văn chương mang phong cách Nam triều "duy mỹ"

Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương thiên nhi thế dạ

Bài dịch

Người trước chẳng thấy ai
Người sau thì chưa thấy
Ngẫm trời đất thật vô cùng
Riêng lòng đau mà lệ chảy

Tử Ngang buổi đầu vào kinh đô, không được người ta biết. Có người bán chiếc đàn hồ cầm, đặt giá trăm vạn tiền, những kẻ hào phú nhìn nhau không ai dám trả giá. Tử Ngang rẻ đám đông vào, sai người hầu chồng một ngàn quan tiền mua, mọi người đều kinh lạ hỏi thăm. Tử Ngang nói "Tôi giỏi chơi loại đàn này". Mọi người đều hỏi " xin cho nghe được không?" Tử Ngang đáp "Mời các ông ngày mai tới làng Huyền Dương". Mọi người theo hẹn đều tới, thì thấy rượu bàn đã bày đầy đủ, chiếc đàn hồ cầm đạt ở phía trước. Uống rượu xong, Tử Ngang nâng đàn rồi nói "Tôi là Trần Tử Ngang người đất Thục, có hơn trăm bài văn, rong ruỗi giữa kinh đô, chôn vùi trong bụi bặm, chẳng một ai biết tới. Nhạc này chỉ là nghề hèn mọn, có đáng gì lưu tâm". Bèn đập nát chiếc đàn, đem văn quyển ra tặng tất cả những người có mặt. Chỉ trong một ngày tiếng tăm vang dậy, sau cùng Triệu Trinh Cố, Lư Tàng Dụng, Đỗ Thẫm Ngôn ( ông nội Đỗ Phủ ), Tống Chi Vấn, Tất Long Trạch, Quách Thập Huy, Tư Mã Thừa Trinh, Thích Hoài Nhất, Lục Dư Khánh xưng hiệu là "Phương ngoại thập hữu" (Mười người bạn ngoài trời). Thời Vũ Tắc Thiên, Tử Ngang làm thư ký cho Tiết độ sứ Kiến An Vương Tịch.
Trần Tử Ngang có làm 38 bài Cảm ngộ ( cám cảnh gặp gỡ ), Vương Thích đọc xong nói "người này ắt là văn tông trong hải nội". Bài thứ hai như sau:

Vi nguyệt sinh tây hải
U dương thuỷ đại thăng
Viên quang chính đông mãn
Âm phách dĩ triêu ngưng
Thái cực sinh thiên địa
Tam nguyên canh phế hưng
Chí tinh lượng tư tại
Tam ngũ thuỳ năng trưng

Bài dịch

Trăng nhỏ rời tây hải
Vầng âm hiện lớn dần
Phương đông màu lạnh ngập
Về sáng phách âm ngưng
Thái cực sinh trời đất
Ba tuần đổi phế hưng
Chí tinh dồn đủ khí
Sáng quắc giữa đêm rằm

[left]Về chữ nghĩa, cố nhiên đây là bài thơ tả trăng. Nhưng trong sự cảm ngộ mà thực chất là bộc lộ các quan niệm triết học và mỹ học của mình, Trần Tử Ngang không chỉ rung cảm trước một vầng trăng của tự nhiên mà còn suy tư về một hiện thực của thế giới. Cho nên vầng trăng ấy hàm chứa cả thế giới và trở thành một biểu tượng cho nhận thức - là một vật thể tượng trưng cho tính chất nguyên chí âm thuần chất, nó giống như thái cực sinh trời đất; đồng thời là một hiện tượng khách quan của vũ trụ, nó cũng đầy vơi tròn khuyết trong ba tuần ( tuần 10 ngày ) của một tháng ( tháng âm lịch ) theo luật tuần hoàn. Và nếu nhìn từ khía cạnh mỹ học, thì rõ ràng ở bài thơ này Trần Tử Ngang đã quan niệm cái đẹp là một hiện thực vận động theo quy luật khách quan đồng thời mang trong nó sự thống nhất tất yếu theo kiểu tiên nghiệm giữa nội dung và hình thức - quan niệm này chính là yếu tố hạt nhân trong lý luận sáng tác của thi pháp thơ Đường.
Lư Tàng Dụng nói "Đạo mất năm trăm năm mới lại thấy Trần quân".

(Trích Giai thoại thơ Đường)



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Wed Oct 14, 2009 9:01 pm; sửa lần 1.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Tri âm không gặp nói cùng ai

Tống Chi Vấn có bài Ngâm đông tiêu dẫn tặng Thừa Trinh ( Đêm đông ngâm thơ nhân tặng Thừa Trinh ) tặng đạo sĩ Tư Mã Thừa Trinh như sau:

Hà hữu băng hề sơn hữu tuyết
Bắc hộ cận hề hành nhân tuyệt
Độc sơn trung hề đối minh nguyệt
Hoài mỹ nhân hề lũ doanh khuyết
Minh nguyệt đích đích hàn đàm trung
Thanh tùng u u ngâm kính phong
Thử tình bất hướng tục nhân thuyết
Ái nhi bất kiến hận vô cùng

Bài dịch

Sông có băng chừ núi có tuyết
Song bắc khép chừ dấu người tuyệt
Riêng núi sâu chừ ngắm trăng soi
Nhớ người đẹp chừ thay tròn khuyết
Trăng soi vằng vặc bóng đầm trong
Thông biếc vi vu tiếng gió rung
Tình nhã chẳng chia cùng thế tục
Mong mà chẳng gặp hận vô cùng

Thừa Trinh đáp lại rằng :

Thời ký mộ hề tiết dục xuân
Sơn lâm tịch hề hoài u nhân
Đăng kỳ phong hề vọng bạch vân
Tướng miếu mạo hề tượng úc phân
Bạch vân du du khứ bất phản
Hàn phong sưu sưu xuy nhật vãn
Bất kiến kỳ nhân thuỳ dữ ngôn
Quy lai đàn cầm tứ dao viễn

Bài dịch

Năm đã tàn chừ tiết sắp xuân
Núi rừng vắng chừ trông cố nhân
Lên đỉnh cao chừ nhìn mây trắng
Ngắm chốn xa chừ như chuyển vần
Mây trắng mênh mông không trở lại
Gió reo vi vút thổi ngày xế
Tri âm không gặp nói cùng ai
Trỗi khúc đàn xa gửi ý ấy

Tư Mã Thừa Trinh tự Tử Vi, hiệu Bạch Vân tử, người Hà Nội. Thuở trẻ không muốn làm quan , theo đạo sĩ Phan Sư Chính học đạo, hiểu hết các thuật đạo dẫn tịch cốc, phù chú luyện đan, lại nắm vững giáo lý Thượng thanh, là một trong các nhân vật quan trọng của Đạo giáo thời Đường. Từng đi khắp các danh sơn, sau tới ẩn cư trên ngọn Ngọc Tiêu núi Thiên Thai. Vũ Tắc Thiên triệu tới Lạc Dương, Duệ Tông triệu vào Trường An, đến khi về núi các quan trong triều có hơn 300 người làm thơ đưa tiễn, về sau ông sắp xếp lại làm thành tập Bạch Vân ký. Đến đời Huyền Tông cũng hai lần vời ra, sau ban chiếu cho tới ở núi Vương Ốc, khi chết được triều đình ban thuỵ là Trinh Nhất tiên sinh. Toàn Đường thi có chép một bài thơ của ông, tức là bài đáp Tống Chi Vấn nói trên.

Thừa Trinh là nhân vật nhờ đạo học mà nổi danh chứ không phải là hạng đạo sĩ đem pháp thuật mà cầu lợi, triều đình gọi thì ra, cho thì về, không tự tiến thân ở cung đình, không cầu giao du với khanh tướng, lối xuất sử tiến thoái " hoà nhi bất đồng" với thế tục ấy đủ cho thấy ông là một bậc cao nhân. Tới như hai câu cuối " tri âm không gặp nói cùng ai, trỗi khúc đàn xa gửi ý ấy " trong bài thơ nói trên thì lời hoà ý sâu, khí tĩnh tứ dài, bình đạm mà hơn đời, ung dung mà thoát tục, còn bộc lộ thêm một phong tư tài sĩ. Lý Bạch có lần gặp Thừa Trinh ở Kim Lăng, được Thừa Trinh khen là có tiên phong đạo cốt, có thể phóng tinh thẩn rong chơi trong trời đất; Lý Bạch có làm bài "Đại bằng phú" ghi lại.

(Trích Giai thoại thơ Đường)



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Wed Oct 14, 2009 8:59 pm; sửa lần 1.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Tóc khách bạc hai năm

Bước sang mùa xuân, khí trời ở Lĩnh Nam vẫn còn rất lạnh. Song những người ở phương bắc lại cảm nhận được ngay sự thay đổi khí hậu từ mùa đông sang mùa xuân tại vùng này. Và trong bài Lĩnh ngoại thủ tuế ( Đêm giao thừa ở Lĩnh Nam ) của Lý Phúc Nghiệp, sự thay đổi chỉ một đêm của trời đất ấy lại gắn liền với tâm trạng buồn bã của một người xa quê :

Đông khứ canh trù tận
Xuân tuỳ đẩu bính hồi
Hàn huyên nhất dạ cách
Khách phát lưỡng niên tồi

Bài dịch

Đêm hết đông đi khỏi
Sáng ra xuân tới thăm
Tiết trời thay một tối
Tóc khách bạc hai năm

Lý Phúc Nghiệp thi đậu tiến sĩ năm Điều Lộ thứ 2 (680), làm quan tới chức Ngự sử. Khi nhóm Trương Giản Chi năm người giết anh em Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông, phế Vũ Tắc Thiên để lập Đường Trung tông, Phúc Nghiệp cũng góp sức. Sau Đường Trung tông lại nghe lời gièm pha của bọn Vũ Tam Tư cách chức nhóm Trương Giản Chi, Phúc Nghiệp cũng bị vu là mưu phản, bị giết chết.

(Trích Giai thoại thơ Đường)

tây cuồng


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

chào Konlinh, lâu quá mới gặp nhỉ Very Happy , dạo này KL vẫn khỏe chứ, bài viết này bổ ích quá, chúc KL sớm hoàn thành nó.

Mến

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Chào huynh Tây Cuồng, lâu quá mới gặp huynh, đệ vẫn khoẻ chỉ có thơ là yếu thôi chut
Cảm ơn huynh đã khích lệ, đệ đánh máy chắc không còn thấy mỏi tay nữa rồi khi
Chúc huynh luôn khoẻ mạnh và hạnh phúc.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Soi tới mới phân minh

Ngày xưa người ta sáng tác với quan niệm Văn hành công khí - văn chương được lưu truyền là vật báu chung của thiên hạ. Văn chương lúc ấy chưa phải là một thứ hàng hoá đúng nghĩa trong một thị trường chữ nghĩa thật sự, bằng chứng là pháp luật chưa đặt ra vấn đề bảo hộ tác quyền. Và có lẽ vì chẳng được bao nhiêu lợi lộc nên người ta cũng ít hứng thú đạo văn, thậm chí có khi còn vu khống những người nổi tiếng là tác giả của tác phẩm của mình để chúng được truyền tụng rộng rãi - sự này cố nhiên là bậy nhưng phần lớn cũng chỉ xâm phạm độc quyền nhãn hiệu của các nhân vật đã quá cố nên ít bị chửi, hơn thế nữa còn góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho các nhà Thư tịch học, Văn bản học đời sau...Tuy nhiên giống như một sự vay mượn tinh thần và tạm ứng trí tuệ để tự khẳng định bản thân trong lĩnh vực rất khó khẳng định là văn chương chữ nghĩa, cổ nhân cũng có những kẻ đạo văn; và mặc dù không phải là hoàn toàn bất tài so với các nạn nhân của mình nên có phần ít dốt nát hơn giới đạo sĩ ( đạo ở đây là trộm cắp ) thời nay, họ cũng để lại cho đám hậu sinh khả uý và khả ố này một số phương thức tổng quát cũng như thủ pháp cơ bản - chẳng hạn thủ tiêu các bằng chứng buộc tội và nguỵ tạo các bằng chứng ngoại phạm. Và giai thoại thơ Đường dưới đây là minh chứng.

Lý Nghĩa Phủ, Tể tướng đời Cao Tông ( 650 - 683 ) có bài thơ ngũ ngôn như sau :

Lũ nguyệt vi ca phiến
Tài vân tác vũ y
Tự lân hồi tuyết ảnh
Hảo thủ Lạc Xuyên quy

Dịch thơ

Quạt ca đem chạm nguyệt
Áo múa lấy mây may
Tuyết rọi thương cho bóng
Khéo đem sông Lạc về

Đương thời có Huyện uý Táo Cương Trương Hoài Khánh rất hay trộm cắp văn chương của các bậc danh sĩ đọc thấy bèn tân trang thành thơ thất ngôn :

Sinh tình lũ nguyệt vi ca phiến
Xuất tính tài vân tác vũ y
Chiếu giám tự lân hồi tuyết ảnh
Lai thời hảo thủ Lạc Xuyên quy

Dịch thơ

Tình hứng quạt ca đem nguyệt chạm
Tính thành áo múa lấy mây may
Soi lên tuyết rọi thương cho bóng
Khen kẻ khéo đem sông Lạc về

Thông thường ai không có thịt cá mới dùng nhiều bột ngọt ( mì chính ) để nấu canh, cũng như ai không có ý tưởng mới tung hứng ngôn từ để làm ảo thuật chữ nghĩa. Tám chữ của thi nhân họ Trương thêm vào kia do đó cũng chỉ nhằm làm cho bài thơ khác đi so với nguyên tác của Lý Nghĩa Phủ như một lối thủ tiêu bằng chứng buộc tội, chứ về giá trị thì cũng chỉ là một thứ bột ngọt ngôn từ, chẳng ích lợi gì cho bài thơ về ý tứ lẫn nghệ thuật. Vụ đạo văn trắng trợn này đã khiến người đương thời có câu Hoạt tước Trương Xương linh, Toạ thôn Quách Chính Nhất ( Nuốt sống Trương Xương Linh, Ăn tươi Quách Chính Nhất - Xương Linh và Chính Nhất đều là hai nhà thơ nổi tiếng lúc bấy giờ ), ý nói Hoài Khánh chỉ giơi việc ăn tươi nuốt sống thơ văn của người khác mà thôi.

Tân Hoằng Trí và Thường Định Tông cùng là tiến sĩ làm việc ở Quốc tử giám. Hoằng Trí có một bài thơ rằng :

Quân vi hà biên thảo
Phùng Xuân tâm thặng sinh
Thiếp như đài thượng kính
Đắc chiếu thuỷ phân minh

Dịch thơ

Chằng nói cỏ ven sông
Gặp xuân lòng hẳn xanh
Thiếp như gương trên giá
Soi tới mới phân minh

Định Tông thấy tứ thơ đặc sắc đâm ra thú quá, bèn đổi chữ thuỷ ( mới ) trong câu cuối thành chữ chuyển ( sẽ ) rồi nhận là thơ mình. Hai người cãi nhau, ai cũng nói " Ta làm viết ra trên giây rõ ràng đây ". Bác sĩ Quốc tử giám La Đạo Tông phân xử rằng " Phép tắc thơ ngũ ngôn đã định từ xưa, là đều lấy lý để chia cao thấp. Nay có chuyện tranh giành, thì ai viết nhiều hơn là tác giả. Vậy bài thơ của Hoằng Trí, còn chữ chuyển là của Định Tông, cứ dựa vào bản viết tay của hai người mà xét theo công luận".

Kể ra theo logic trong kết cấu bai thơ, tức cái mà La Tông Đạo gọi là " lý " thì chữ chuyển của Định Tông quả cũng làm bài thơ rõ hơn về ý và chặt hơn về nghĩa so với chữ thuỷ của Hoằng Trí thật. Có điều sửa đi một chữ rồi nhận cả tác phẩm với ý tứ trọn vẹn của người ta làm của mình với lý do viết ra có khác như một lối nguỵ tạo bằng chứng ngoại phạm thì lối lý sự ăn người của Định Tông quả cũng khá trơ tráo. Nhưng so với đám hậu bối ngày nay chỉ biết sửa năm mươi năm thành nửa thế kỷ, tâm lý cứng cõi mà phóng khoáng thành tâm lý rắn rỏi mà khoáng đạt... thì ít ra ông ta cũng tài giỏi hơn một tầng. Xem ra nếu sống vào thời nay thì với bằng cấp sang cả, sở trường khôn vặt và nhất là bản lãnh trơ tráo ấy có lẽ ông sẽ nổi tiếng trong một cái nghề danh giá là sữa chữa năm ba chỗ, thay đổi một đôi câu gọi là hiệu duyệt, nhuận sắc rồi ký tên là Chủ biên, Chỉ đạo hoặc Đồng tác giả...gì đó trên sách vở của kẻ khác viết cũng chưa biết chừng...

Dương Hành buổi đầu ẩn cư ở Lư Sơn, nổi tiếng hay thơ. Có người quen đi thi ăn cắp thơ ông làm bài, đậu tiến sĩ. Sau đó Hành lên kinh thi, cũng đậu tiến sĩ, gặp người ấy bèn giận dữ hỏi " câu Nhất nhất hạc thanh phi thượng thiên ( Tiếng tiếng hạc kêu bay tới trời ) có còn không"? Người ấy đáp " Biết ông rất quý câu ấy, nên thật là không dám ăn cắp". Hành cười nói " Vậy thì còn tha được ".

Cố nhiên Dương Hành bỏ qua việc Tiến sĩ - đạo sĩ kia trộm cắp thơ văn của ông vì chưa bị mất luôn câu ông đắc ý, nhưng việc biết điều mà chừa lại câu ấy cũng cho thấy ít ra người kia cũng có nhãn lực về văn chương, nên việc ông ta thành khẩn nhận lỗi cũng làm cho Hành thoã mãn. Chứ như một vài học giả ngày nay chép ráo cả những lỗi in ấn trong sách của người khác theo một cung cách dốt nát vô phương cứu chữa, khi bị vạch mặt còn già mồm thưa kiện hoặc cãi vã, thậm chí dùng cả thủ đoạn hạ lưu là vu khống nạn nhân của mình đạo văn để chạy tội, thì đó không phải là loại trộm cắp nữa mà là hạng lưu manh rồi. Cho nên so với những kẻ dốt nát và vô sỉ không thể dùng đạo đức và dư luận để ngăn chặn mà có lẽ phải nhờ đến pháp lỹ và pháp định soi tới mới phân minh được, vị đạo sỉ nhờ ăn cắp văn chương của Dương Hành mà đậu tiến sĩ nói trên xem ra còn có nét dễ thương hơn...
Có điều nếu nhớ lại những kẻ chép tác phẩm của người khác một cách khá nguyên văn vào những quyển sách bài báo ký tên mình, khi bị phát hiện chỉ " cải chính " hay xin lỗi bằng mồm, thì có thể thấy rằng ông ta với họ cũng chỉ là cùng trường khác lớp !

( Trích Giai thoại thơ Đường )



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Sat Oct 17, 2009 3:51 pm; sửa lần 1.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Đêm đêm khí vẫn xông trời đất

Long Tuyền là một thanh kiếm báu đời cổ ở Trung Quốc. Tương truyền vào đời Tấn Huệ đế, Quảng Vũ hầu Trương Hoa thấy khoảng giữa sao Đẩu và sao Ngưu có khí màu tía, nghe nói người Dự Chương là Lôi Hoán giỏi về cái học tinh vĩ thiên tượng, bèn gọi tới hỏi. Hoán nói " Đó là khi tinh hoa của kiếm báu ở Phong Thành xông lên trời vậy ". Hoa bèn cử Hoán ra làm Huyện lệnh Phong Thành, sai tìm kiếm báu. Hoán tới Phong Thành, cho đào ở nền ngục thất được một cái hòm đá, bên trong có hai thanh kiếm, đều có khắc tên, một đề Long Tuyền, một đề Thái A, lấp lánh mờ mắt." Thanh kiếm Long Tuyền " về sau trở thành một văn liệu phổ biến trong văn chương chữ Hán để ví với tài năng, phong thái của người anh hùng ; nhưng ít khi câu chuyện về thanh kiếm này lại trở thành một đề tài sáng tác như trường hợp bài Cổ kiếm ca của Quách Nguyên Chấn.

Quách Nguyên Chấn ( Tân Đường thư chép là Quách Chấn, đây theo Cựu Đường thư ) là người Quý huyện thuộc Tử Châu, thiên tư hùng mại. Năm 18 tuổi ( có sách chép là 16 tuổi ) thi đậu Thái học sinh ( Tiến sĩ ). Ra làm Huyện uý Thông Tuyền, xử đoán công việc ngang tàng hào hiệp, không câu nệ theo tiểu tiết pháp luật. Vũ hậu biết được, triệu về hạch hỏi. Đến khi trò chuyện, thấy là người lạ, bèn hỏi tới văn chương trước tác lúc bình nhật, Nguyên Chấn dâng bài Cổ kiếm ca ( có sách chép là Bảo kiếm ca ), toàn văn như sau:

Quân bất kiến :
Côn Ngô thiết dã phi viêm yên
Hồng quang tử khí câu hách nhiên
Lương công đoàn luyện phàm kỷ niên
Chú đắc bảo kiếm danh Long Tuyền
Long Tuyền nhan sắc như sương tuyết
Lương công ta tư thán kỳ tuyệt
Lưu ly ngọc hạp thổ liên hoa
Thác lũ kim hoàn sinh minh nguyệt
Chính phùng thiên hạ vô phong trần
Hạnh đắc dụng phòng quân tử thân
Tinh quang ảm ảm thanh xà sắc
Văn chương phiến phiến lục quy lân
Phi trực kết giao du hiệp tử
Diệc tằng thân cận anh hùng nhân
Hà ngôn trung lộ tao khi quyên
Linh lạc phiêu linh cổ ngục biên
Tuy phục trầm mai vô sở dụng
Do năng dạ dạ khí xung thiên

Bài dịch

Anh chẳng thấy :
Sắt tốt Côn Ngô bay khói nóng
Ánh hồng hơi tía đều rát bỏng
Thợ hay rèn luyện mấy năm liền
Đúc được kiếm báu tên Long Tuyền
Long Tuyền màu sắc như sương tuyết
Thợ hay tấm tắc khen kỳ tuyệt
Bao ngọc lưu ly nảy hoa sen
Khâu vàng chảm trổ sáng ánh nguyệt
Gặp khi thiên hạ lặng phong trần
May được quân tử dùng phòng thân
Thân rắn sóng xanh màu lóng lánh
Văn rùa lưỡi chớp vảy linh lung
Nếu chẳng kết giao cùng hiệp khách
Cũng từng thân cận với anh hùng
Sao nói giữa đường bị vứt bỏ
Rơi rụng phiêu linh cạnh ngục thất
Tuy bị vùi chôn chẳng được dùng
Đêm đêm khí vẫn xông trời đât

Vũ hậu xem xong rất khen ngợi, truyền đưa cho bon học sĩ Lý Kiều đọc. Từ đó Nguyên Chấn bắt đầu được trọng dụng, dần làm tới Tể tướng, kế ra làm đại tổng quản quân Sóc Phương rồi về triều làm Thượng thư bộ Binh, oai danh lừng lẫy. Thời Đường Minh Hoàng được phong làm Đại quốc công, sau có lỗi bị giáng, kế được phục chức Tư mã rồi chết. Về sau Đỗ Phủ qua ngang nhà cũ của Quách, có làm bài thơ rằng :

Tráng công lâm sự đoán
Cố bộ thế hoành lạc
Cao vịnh bảo kiếm liên
Thần giao phó minh mạc

Dịch thơ

Hào hùng gặp việc không câu nệ
Ngoái lại vết xưa thầm gạt lệ
Cao giọng ngâm bài bảo kiếm ca
U minh kết giao cảm tri kỷ

Về câu " Thần giao phó minh mạc " trong bài Quá Đại công cố trạch trên đây, Đường thi kỷ sự chú rằng: Nguyên Chấn có hai câu thơ rất hay là " Cửu thú nhân thiên lão, trường chinh mã thiểu phì" ( Người già năm viễn thú, Ngựa ốm lối trường chinh ). Tương truyền Nguyên Chấn ngụ trong núi, đêm có một người mặt to như cái mâm hiện ra dưới đèn, bèn viết hai câu thơ nói trên vào trán, người ấy biến mất. Hôm sau xuất hành, thấy một cây to có vết như cái vành tai, hai câu thơ ghi ở chỗ ấy, mới biết là quỷ thần tới nghe thơ !

Mặc dù đường công danh cũng gặp nhiều chuyện không may, Quách Nguyên Chấn vẫn có một kết cục nhìn chung khá trọn vẹn. Song được dùng thì làm quan, không được dùng thì giữ chí, người ấy đã hiện ra qua thơ ấy rồi. Bài Cổ kiếm ca với hai câu " Nếu chẳng kết giao cùng hiệp khách, Cũng từng thân cận với anh hùng" đã cho thấy một tài thức hào mại hơn đời, và với hai câu cuối " Tuy bị vùi chôn chẳng được dùng, Đêm đêm khí vẫn xông trời đất" thì một thiên tư cứng cõi không chịu khuất phục nghịch cảnh đã hiển hiện. Cho nên thân làm Tể tướng, tước tới Quốc công, vào triều ra trấn lừng lẫy tiếng tăm, trở thành bậc danh thần một thời, cũng có gì là lạ đâu.

( Trích Giai thoại thơ Đường )



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Sat Oct 17, 2009 3:50 pm; sửa lần 1.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Ngay cả Trẫm cũng không dám can

Lý Nhật Tri người Vinh Dương, thi đậu Tiến sĩ, trong niên hiệu Thiên Thụ ( 690 - 692 ) giữ chức Tư hình thừa. Buổi ấy pháp luật rất nghiêm ngặt, quan lại nhân đó đua nhau làm điêu khắc nghiệt, riêng Nhật Tri vẫn giữ sự công bằng khoan hoà, không xét nét theo câu chữ của pháp luật. An Lạc công chúa là con Trung tông, lấy phủ đệ cũ của Trường Ninh công chúa rồi xây dựng lại, vườn rộng hồ sâu, đài chạm gác trổ rất mực xỉ, ngày lạc thành mời Trung tông tới thăm, đãi yến các quan đi theo, lệnh cho làm thơ để ghi lại việc hiếm có. Các quan ai cũng trổ tài văn hoa mẫn tiệp ngợi ca cảnh hoàng gia phú quý lần lượt dâng lên, Nhật Tri dâng thơ cuối cùng mà chỉ có hai câu như sau :

Sở nguyện đãn tri cư giả lạc
Vô sử thời xưng tác giả lao

Dịch thơ

Ý tứ mong chỉ vui kẻ ở
Thế gian không nói khổ người xây

Lấy sự có chừng mực để nhắc nhở can giám. Về sau Duệ tông ( con Trung tông ) nói " Đang lúc thiên hạ xu phụ như vậy, ngay trẫm cũng không dám can, nếu không ngay thẳng bằng như khanh, sao có thể làm được ". Lập tức phong Nhật Tri làm Thị lang.

( Trích Giai thoại thơ Đường )



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Sat Oct 17, 2009 3:48 pm; sửa lần 1.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Thở than người khác nhạn

Trong niên hiệu Như Ý ( 692 ) có cô gái nhỏ mới 9 tuổi đã biết làm thơ. Võ Tắc Thiên triệu vào cung, thử mấy lần đều ứng khẩu làm được, bèn giữ lại. Người anh đưa cô ta lên chào để ra về, Tắc Thiên sai làm thơ để tiễn, cô ta bèn đọc rằng :

Biệt lộ vân sầu khởi
Ly đình diệp chính hy
Sở ta nhân dị nhạn
Bất tác nhất hàng phi

Dịch thơ

Lối rẽ mây sầu nổi
Tay rời lá úa phai
Thở than người khác nhạn
Nên chẳng một hàng bay

Bài thơ lập ý rõ ràng có chỗ khác người, kể cũng là một cô gái có tài. Song Đường Tống di sử ghi chép có thế, không rõ số phận cô ta về sau ra sao.

( Trích Giai thoại thơ Đường )

Hoason

Hoason
Bạn Thân
Bạn Thân

chúc đệ tìm thấy nhiều niềm vui nơi tuyệt tình cốc này nhé.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Những bài thơ tuyệt mệnh

Thi pháp thơ Đường truyền thống đưa tới một hiệu quả nghệ thuật - nhân sinh rất đặc biệt. Đòi hỏi một sự nhất hoá cao độ giữa ngoại giới với nội tâm, nó khiến người làm thơ bộc lộ không những kiến thức, nhân phẩm, tâm tính, nhân cách , mà nhiều khi cả tiềm thức, dự cảm của mình nữa. Cho nên trong giai thoại thơ Đường có không ít các truyện kể về việc xem tác phẩm mà biết được tài năng, chí khí, sự nghiệp, cuộc đời của tác giả. Có thể xếp các bài thơ tuyệt mệnh của Trịnh Thục Tân, Nguyên Chẩn, Thôi Nguyên Phạm, Lã Quần dưới đây vào loại " thơ khẩu khí " đó.

Trịnh Thục Tân người Vinh Dương, giỏi làm thơ ngũ ngôn, tuổi đã già mới được cử làm một chức huyện uý ở vùng Giang Tả. Ngày lên đường thân thích bạn bè bày tiệc tiễn ở cửa Thượng Đông, Thục Tân làm thơ rằng :

Uý đồ phương vạn lý
Sinh nhai cận bách niên
Bất tri tương bạch thủ
Hà xứ nhập hoàng tuyền

Dịch thơ

Đường hoạn muôn trùng nhiều hiểm trở
Đời người trăm tuổi khổ sinh nhai
Đành đem tóc trắng liều thân thế
Gửi xác nơi nào thật chẳng hay

Uống say rồi ngâm, thanh điệu bi thiết. Kết quả chết tại nơi làm quan trong niên hiệu Trường Thọ.

Trong niên hiệu Thái Hoà (827 - 835) Bạch Cư Dị làm Lệnh doãn Hà Nam. Nguyên Chẩn được phong làm Tả Thừa tướng, từ Việt Châu qua đất Lạc thăm Cư Dị, có làm hai bài thơ từ biệt như sau :

I
Quân ưng quái ngã lưu liên cửu
Ngã dục dữ quân từ biệt nan
Minh đầu đồ lữ tạm huy thiểu
Minh nhật khủng quân vô thử hoan
II
Tự thức quân lai tam độ biệt
Giá hồi bạch tận lão tỳ tu
Luyến quân bất khứ quân tu hội
Tri đắc hậu thời tương kiến vô?

Dịch thơ

I
Bạn cứ lạ ta lưu lạc mãi
Ta toan chào bạn ngại ngùng hoài
Bạn bè tóc bạc dần thưa vắng
E bạn mai ngày ít dịp vui
II
Tính lại ba phen mình cách mặt
Lần này râu tóc thảy như bông
Thương nhau nấn ná giờ ly biệt
Biết có ngày sau gặp lại không?

Chẳng bao lâu quả nhiên Chẩn chết ở Ngạc Châu. Cư Dị khóc nói " Trước lấy thơ kết giao, sau lấy thơ vĩnh quyết, đàn bút ta thôi hết chắc là ngày nay chăng!"

Thôi Nguyên Phạm làm Giám sát Ngự sử ra thanh tra Chiết Đông. Trước đó quan sát sứ Chiết Đông Lý Nạp có một đêm lên vọng lâu trong thành nghe lời hát rằng " Nhạn Môn sơn thượng nhạn sơ phi " ( Chim nhạn vừa bay núi Nhạn Môn ) âm điệu gấp gáp thê thiết. nạp gọi tới hỏi, người hát thưa rằng " Thiếp là con hát hạng cuối tên Thịnh Tiểu Tùng." Đến hôm Nguyên Phạm thanh tra xong trở về kinh, Nạp hội quan viên ở mạc phủ bày tiệc đưa chân, sai Tiểu Tùng hát, mỗi khách trên tiệc đều làm một bài thơ tứ tuyệt để tiễn. Thơ của Nạp như sau :

Tú y bôm mệnh khứ tình đa
Nam quốc giai nhân liễm thuý nga
Tằng hướng giáo phường thinh ( thính ) quốc nhạc
Vị quân trùng xướng Thịnh Tùng ca

Dịch thơ

Áo thêu chăm chắm lại kinh hoa
Người đẹp phương nam dạ xót xa
Từng hướng ca phường nghe tiếng nhạc
Vì ông lại bảo Thịnh Tùng ca

Nguyên Phạm hiểu ý chúc tụng của Nạp, bèn làm một bài thơ từ tạ rằng :

Dương Công lưu yến Nghiễn Sơn đình
Lạc Phố cao ca ngũ dạ tình
Độc hướng Bách dài vi lão lại
Khả lân lâm mộc hưởng dư thanh

Dịch thơ

Quan hiền ý tiễn xiết chân thành
Người đẹp lời ca nặng nghĩa tình
Chức lại riêng già nơi phủ quạ
Nghĩ thương cây lá vọng âm thanh

Khách trên tiệc có người nói " Quan Thị ngự là Trung thư nơi gác phượng, tiền trình như chim phượng, làm sao mà già nơi phủ quạ ( thời Hán trong phủ Ngự sử trồng nhiều cây bách, có đàn quạ hoang vài ngàn con tụ tập, sáng bay đi tối bay về, vì thế người ta gợi phủ Ngự sử là Bách đài hay Ô đài ) được, xin ngàu sửa câu ấy ". Nguyên Phạm không chịu, đến mùa thu đi xét án ngục tại Tiêu Trung, quả chết ở chức Ngự sử.

Lã Quần, vào năm Nguyên Hoà thứ 11 (816) thi rớt, đi chơi tới đất Thục. Tính khắc khe với kẻ dưới, đám đầy tớ đánh xe đều oán hận. Tới My Châu ngự lại ở một ngôi chùa, Quần đề hai bài thơ trên vách phía đông rằng :

I
Lộ hành tam Thục tận
Thân cận nhất dương sinh
Lại hữu tàn đăng hoả
Tương y toạ đáo minh
II
Xã hậu tên sào yến
Sương tiền biệt đới bồng
Nguyện vi hồ điệp mộng
Phi khứ mịch Quan Trung

Dịch thơ

I
Lối trước hỏi đường ba Thục hết
Đông về gặp khí nhất dương sinh
Đèn tàn ngọn lửa còn leo lét
Đén sáng nương nhau tỏ bóng hình
II
Bỏ rường, trên tổ không chim én
Đứt rễ, trong sương xót cánh bồng
Mong được mơ màng trong giấc bướm
Bay về chấp chới kiếm Quan Trung

Ngâm xong rơi lệ, ngậm ngùi không thôi. Chẳng bao lâu thì bị đầy tớ giết chết.

Thơ của Trịnh Thục Tân là lời tuyệt vọng, của Nguyên Chẩn là lời tuyệt giao, của Thôi Nguyên Phạm là lời tuyệt danh, của Lã Quần là lời tuyệt tâm. Bốn người đều có chỗ đoạn tuyệt với đời, có lẽ cũng là điềm tuyệt mệnh. Song Thục Tân tuyệt vọng mà không tuyêt chí, Nguyên Chẩn tựa tuyệt giao mà không tuyệt tình, Nguyên Phạm giống tuyệt danh mà không tuyệt ý, nên kết cục còn được trọn vẹn. Riêng Quần thì khí cục nhỏ nhen, không dung ngoại vật, đi chơi dừng lại mà than hết đường, chim én lánh đông mà tả là bỏ rường, quả là con người khắc bạc. Đến như biết đèn sắp tắt mà vẫn gượng soi đến sáng, có ý khinh đời song lại đợi chờ giấc bướm, thì việc làm nông nỗi, lời nói bừa bãi đã cho thấy là kẻ cư xử bất cẩn vậy. Lời thơ chim én bỏ rường, cánh bồng đứt rễ quả là cái triệu tuyệt tâm, song kẻ nào nhất thời chán đời cũng có thể viết ra được, chưa phải đã thực sự là điều hệ trọng. Đáng nói là tình tuyệt chỗ hết đường, ý tuyệt chỗ nương đèn, chí tuyệt chỗ giấc bướm; tâm tình cùng ý chí đều tuyệt, thật đã đáng ngại lắm. Huống chi tâm sự đã phiền não, tâm tính vốn khắc bạc mà tâm tư lại bất cẩn, thì chết phi mệnh dưới tay kẻ hầu hạ thất học nghĩ cũng đúng thôi.

( Trích Giai thoại thơ Đường )

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Ban ngày trăng sáng, mùa hè tuyết giăng

- Trông xa một đống đen xì
Đến gần kính ngắm ấy thì mỏ than
- Giống ruồi là giống hiểm nguy
Mỗi chân của nó rất vi trùng nhiều
- Liên Xô thật đáng tự hào
Có Ga-ga-rỉn (rin) bay vào vũ tru ( trụ )
- Anh đi công tác Pờ- lây
Ku dài dằng dặc biết ngày nào vê ( về )

Ba bài thơ đầu tả cảnh mỏ than Quảng Ninh, kêu gọi diệt ruồi để giữ vệ sinh và ca ngợi thành tích chinh phục vũ trụ của Liên Xô trên đây tương truyền là của nhà thơ Bút Tre, một người làm công tác văn hoá ở khu vực Vĩnh Phú trong những năm 60. Không rõ có đúng với nguyên tác và thật của thi sĩ hay không, bởi qua thắng năm thiên hạ đã gán cho ông quá nhiều thi phẩm dị hợm như đoạn tiễn bạn đi công tác Pleiku ( có lẽ xuất hiện sau 1975 ); song chắc chắn ông cũng có không ít thi phẩm loại ấy, những thi phẩm mang phong cách cấu tứ và nhất là nghệ thuật tu từ độc đáo không có trong lý luận văn học của mọi quốc gia và thời đại song đã thực sự đặt nền tảng cho một hạng mục văn chương được gọi là thơ Bút Tre. Có điều loại thi sĩ và thi phẩm Trúc Bút ấy ít ra cũng đã xuất hiện từ thời Đường ở Trung Hoa, với hiện tượng Quyền Long Bao mà xét về phương diện kỳ quái thì còn trên tài cả Hoàng Phủ Thực bạn Hàn Dũ.

Long Bao người Tần Châu, trong niên hiêuh Cảnh Long (707 - 710 ) giữ chức Tả vũ tướng quân, rất thích làm thơ song không biết gì về thanh điệu và thi luật. Có lần Trung tông họp các Học sĩ cùng làm thơ, Long Bao cũng vào dự rất tự nhiên, vua thấy thế gọi đùa là Quyền Học sĩ. Trước đó cha Long Bao có tội nên ông ta bị liên luỵ từng bị đi đày, hôm ấy bèn làm thơ dâng vua như sau:

Long Bao hữu hà tội
Thiên ân phóng Lĩnh Nam
Sắc tri vô tội quá
Truy lai dữ tướng quân

Dịch thơ

Long Bao nào có tội
Ơn vua đày Lĩnh Nam
Nay hay không tội trạng
Phong bù chức tướng quân

Dĩ nhiên tác giả cũng có ý nói mình không có tài cán gì, chỉ nhờ vô tội - trung thành mà được làm quan, song ý tứ trung thuận ấy lại được thể hiện bằng lời kể lể quá khứ nào có tội khá ngây ngô nên đâm ra giống như một sự tố cáo rất phản tác dụng. Có điều Trung tông nghe xong lại cả cười, có lẽ vi biết rõ tâm tính của Long Bao và chắc vì bài thơ chẳng ra phương pháp gì, ngay cả bốn câu cũng hạ bốn vần khác nhau!

Long Bao có hai câu thơ tả cảnh Hạ nhật ( ngày hè ) rằng " Nghiêm tuyết bạch hạo hạo, Minh nguyệt xích đoàn đoàn " ( Tuyết lạnh sáng rực rực, Trăng sáng đỏ tròn tròn ), nghe thì đối chan chát nhưng chẳng ra ý tứ gì. Hôm ấy lại là dịp Thái tử Lý Đán ( tức Duệ tông về sau ) mời khách ăn tiệc làm thơ, có người ngạc nhiên nói " Đó đâu phải là cảnh mùa hè ", Long Bao đáp " Chỉ là theo vần thôi " ( Sấn vận nhi dĩ ) - ý chừng câu Nghiêm tuyêt...lạ đời kia là ông ta muốn tả ánh nắng ngày hè chói chang sáng trắng, và vì câu trên có chữ tuyết nên câu dưới hạ chữ nguyệt cho theo vần! Mọi người nghe Long Bao nói đều phá lên cười, Lý Đán thì cố nín cười kéo bút viết luôn mấy câu bình luận:

Long Bao tài tử
Tần Châu nhân sĩ
Minh nguyệt trú diệu
Nghiêm tuyết hạ khỉ ( khởi )
Như thử văn chương
Sấn vận nhi dĩ

Dịch thơ

Tài tử Long Bao
Nhân sĩ Châu Tần
Ban ngày trăng sáng
Mùa hè tuyết giăng
Văn chương như thế
Chỉ là theo vần

Lời bình được đọc lên, khách khứa lại bò ra cười!

Thật ra Long Bao đã nổi tiếng với loại thơ chỉ là theo vần của ông ta từ trước đó khá lâu. Trong niên hiệu Vạn Tuế Thông Thiên ( 696 - 697 ) ông ta được cử làm Thứ sử Thương Châu, vừa tới nơi nhận chức, trong bữa tiệc gặp mặt đầu tiên đã đưa ra một bài thơ diện kiến khiến tất cả các quan liêu thuộc cấp có mặt phải phát run vì nhịn cười:

Dao khán Thương Châu thành
Dương liễu uất thanh thanh
Trung ương nhất quần hán
Tụ toạ đả bôi giác

Dịch thơ

Xa ngó thành Thương Châu
Dương liễu biếc một màu
Ở giữa có một bọn
Quây quần cùng nhậu nhẹt

Mọi người không ai dám hoạ lại, đều cố gắng trấn tĩnh từ tạ rằng " Ngài thật tài hoa phóng dật ". Long Bao cũng khiêm tốn đáp " Không dám, chỉ là theo vần thôi." Ít lâu sau lại làm một bài thơ đặt nhan đề là Thu nhật hưu hoài ( Ngày thu nghỉ ngơi cảm hoài ) lời lẽ cực kỳ bí hiểm:

Thiềm tiền phi thất bách
Tuyết bạch hậu viên cương
Bão thực phòng lý trắc
Gia phấn tập dã lang

Dịch thơ

Trước thềm bảy trăm bay
Tuyết trắng viền sau vườn
No bụng nghiêng trong buồng
Nhà xí họp hung đồng

Các quan Tham quân trong châu được Thứ sử đưa xem chẳng hiểu gì cả, hỏi nghĩa thì ông Bút Tre thời Đường này đáp " Nghĩa là có khoảng bảy trăm con chim chích bay qua trước thềm, áo giặt phơi sau vườn trắng như tuyết, ăn no nằm trong buồng phải nằm nghiêng, cầu xí trong nhà đầy những bọ hung ( khương lang ) từ đầm ngoài đồng bay vào " khiến người nghe thảy phán ngán khịt mũi về cái sự cảm hoài ngày thu chân thực tới mức ít thẩm mỹ và thực thà tới nỗi thiếu vệ sinh của ông ta...

Về Quyền Long Bao thì còn lắm giai thoại ly kỳ nhưng chỉ cần nêu thêm một mẩu chuyện cho phép nhìn nhận kiến thức của ông ta về mặt văn chương chữ nghĩa. Lúc ở Thương Châu, nhận được thư của một người quen ở Kinh Châu trong có câu " Cải niên đa cảm " ( Năm tháng đổi thay, lòng nhiều cảm xúc ), ông ta bèn đem thư cho quan Pháp ty ở châu nói " Triều đình đổi niên hiệu là Đa Cảm nguyên niên ", người ta kể cho nhau nghe để cười.

Đương nhiên, ra quận làm nổi Thứ sử, về triều làm tới Tướng quân, Quyền Long Bao hoàn toàn không phải là kẻ bất học vô thuật. Song giống như nhiều người không có khả năng mà vẫn muốn tự khẳng định mình trong lĩnh vực văn chương chữ nghĩa, ông ta lại trở thành trò cười cho cả đương thời cũng như hậu thế với những lời thơ loại ban ngày trăng sáng, mùa hè tuyết giăng ngốc nghếch và kỳ quặc của mình. Ai cũng có lúc nói ra lời ngu xuẩn cả, nhưng điều quan trọng là đừng nói chúng ra một cách nghiêm chỉnh. Long Bao lại đọc những bài thơ chỉ là theo vần kia ra với một thái độ nghiêm chỉnh, nghĩa là coi chúng là thơ thật, thì trách gì không bị thiên hạ chê bai.

( Trích Giai thoại thơ Đường )

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Ruộng vườn mờ mịt lối

Lưu U Cầu có bài thơ Thư hoài ( Tỏ nỗi lòng ) như sau :

Tâm vị minh thời tận
Quân môn thượng bất dung
Điền viên mê kính lộ
Quy khứ dục hà tùng

Dịch thơ

Lòng dạ phô bày hết
Cửa vua chẳng còn dung
Ruộng vườn mờ mịt lối
Quay bước khó về cùng

Lưu U Cầu người Ký Châu, cuối thời Trung tông làm quan tới chức Ngự sử. Khi Vi Hoàng hậu đầu độc trung tông, phế Tương vương mà lập Ôn vương làm vua để thao túng triều đình, con Tương vương là Lâm Tri vương Long Cơ ( tức Huyền tông Đường Minh hoàng sau này ) đem quân giết Vi Hoàng hậu, tôn Tương vương ( tức Duệ tông ) làm vua, U Cầu cũng có công. Niên hiệu Tiên Thiên (712) làm Tể tướng nhưng quyền hành còn dưới nhiều người, có ý chưa thoã mãn. Khi Đậu Hoài Trinh, Thôi Trực giúp Thái Bình công chúa mưu phản, U Cầu khuyên Minh hoàng nên trừ đi, lời nói tiết lộ nên bị Thái thượng vương Duệ tông đày ra Phong Châu, năm sau Thái Bình công chúa bị giết lại được triệu về kinh. Đầu niên hiệu Khai Nguyên ( 713-741 ) được tiến cử làm Tả thừa tướng, nhưng vì đang giữ chức Thái tử Thiếu bảo nên triều đình bàn thôi việc ấy. Tể tướng Diêu Sùng vốn ghét, tâu rằng U Cầu vì giữ chức tản quan ( chức quan nhàn rỗi - không quan trọng ) thường có lời oán vọng. Vua giáng chiếu sai bọn Lư Hoài Thận tra xét, đều tâu rằng U Cầu khinh nhờn ngạo mạn, mất phong thể đại thần, nên bị biếm làm Thứ sử Mục Châu, đổi làm Thứ sử Hàng Châu và Sâm Châu. U Cầu phẫn uất chết trên đường đi.

Người xưa thường lấy việc giúp vua trị nước làm công danh sự nghiệp của kẻ sĩ, việc U Cầu bày tỏ ý nguyện như vậy chẳng có gì là sai trái. Song tình người có lúc ấm lúc lạnh, đường đời có chỗ thẳng chỗ cong, không thể cố chấp mà xử sự theo một lối được. Không rõ có phải bài Thư hoài kia là chứng cớ cho nhóm Lư Hoài Thận kết luận về tội " ngạo mạn " của U Cầu không, song ít ra thì câu Ruộng vườn mờ mịt lối cũng cho thấy tác giả không đạt lẽ thiến thoái nên tự ngăn lấp đường lui rồi. Mà đã quyết ý không lui thì lẽ ra cứ phải kiên tâm mà tiến, đây lại vừa gặp điều không như ý đã lập tức trách móc rằng triều đình không dung thì rõ là tâm chí đã tự bại trước, làm sao còn tiến được nữa ! Nhưng ý khí lại không dung được sự không dung của triều đình, cứ cậy tài cậy công muốn tiến, cương cường quá nên thành khắc bạc, đến nỗi mất cả phong thể đại thần, không được dùng thì oán vọng ra lời, bị giáng chức thì phẫn uất mà chết; tối tăm sự lập chí, mờ mịt việc chung thân như thế, đáng thương mà cũng đáng trách lắm.

( Trích Giai thoại thơ Đường )



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Fri Oct 23, 2009 3:47 pm; sửa lần 1.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Làm sao chống lạnh đây

Nho giáo đề cao đạo thầy trò tới mức đặt thầy trên cha trong thứ bậc Quân Sư Phụ. Triều đình nhà Đường cũng vậy. Sử sách còn chép khi Lý Thế Dân còn là Tần vương, được Đường Cao tổ Lý Uyên đón Trương Phục Dận làm khách dạy cho kinh sử. Sau Thế Dân lên ngôi, có lần đãi yến quần thần ở hồ Nguyệt Trì, đắc ý hỏi Trương Phục Dận rằng " Như đệ tử ngày nay thì thế nào ?". Phục Dận tâu " Xưa đức Khổng Tử có ba ngàn học trò mà kẻ được vinh hiển chẳng một ai được phong tới tước tử tước nam, thế mà thần tán trợ một người liền được trị vì thiên hạ, cứ kể cái công của thần, còn vướt cả đức Tuyên thánh ", Thái tông nghe nói liền cười. Xem câu chuyện trên đủ biết các ông vua khai sáng triều đại đều trọng đãi kẻ sĩ đồng thời trọng vọng người thầy, nên Phục Dận mới dám đùa với Đường Thái tông kiểu ấy. Thế nhưng nhiều người trong đám hậu duệ của Đường Thái tông lại coi ông thầy là hạng đầy tớ, nên giai thoại thơ Đường còn ghi lại câu chuyện không cười nổi về trường hợp Tiết Lệnh Chi.

Lệnh Chi người Trường Khê đất Mân, thi đậu tiến sĩ. Trong niên hiệu Khai Nguyên ( 713-741 ) đời Huyền tông, Lý Hanh ( sau là Đường Túc tông ) làm Đông cung Thái tử, Lệnh Chi được lấy hàm Hữu Bổ khuyết kiêm Đông cung Thị giảng thay cho Hạ Tri Chương lúc ấy từ chức Hữu Thứ tử thăng làm Thái tử Tân khách sung Bí thư giám. Thời bấy giờ quan lại liêu thuộc ở phủ Đông cung lương bổng rất đạm bạc, nên Lệnh Chi làm một bài thơ Tự Điệu ( Tự xót thương ) như sau :

Triêu nhật thượng đoàn đoàn
Chiếu kiến tiên sinh bàn
Bàn trung hà sở hữu
Mục túc trường lan can
Phạn sắc thời nan quán
Canh hy trợ dị khoan
Vô dĩ mưu triêu tịch
Hà do bảo tuế hàn

Dịch thơ

Mặt trời lên ngày ngày
Chiếu vào mâm của thầy
Trong mâm có những gì
Rau muống cọng dài dài
Cơm hẩm thời khôn vét
Canh suông đũa đỡ rầy
Chẳng đủ lo hai bữa
Làm sao chống lạnh đây

Kể ra một nhà nho làm thầy, lại là thầy của Đông cung mà đến nỗi phải công khai than thở bất chấp nguyên tắc sống quân tử ăn chẳng cần no như vậy thì quả là triều đình Đường Minh hoàng trả lương cho giáo viên tệ thật. Nhưng tệ hơn nữa là khi Lệnh Chi trình bài thơ ấy cho Lý Hanh xem, thì gã học trò này hoặc là dốt, hoặc là hỗn, hoặc là cả hai, lại không giúp đỡ hay cảm thông cho thầy mà còn lên giọng cháu nội trời ( vì chưa phải là con trời ) phê vào bên cạnh bài thơ của ông bốn câu rất hách :

Trác mộc khẩu chuỷ trường
Phượng hoàng vũ mao đoãn
Nhược hiềm tùng quế hàn
Nhiệm trục tang du noãn

Dịch thơ

Gõ kiến lo ăn không ngắn mỏ
Phượng hoàng chuộng đẹp chẳng dài lông
Quế tùng nếu ngại đời heo hút
Dâu thị về đi khỏi lạnh lùng

Lệnh Chi đọc xong bài thơ của Lý Hanh, bèn cáo bệnh từ chức về quê. Đến niên hiệu Càn Nguyên ( 758-760 ) Túc tông đánh dẹp loạn An Lộc Sơn, Sư Tử Minh mới thấm thía về công ơn của các ông thầy, bèn tặng Hạ Tri Chương hàm Thượng thư bộ Lễ và triệu Tiết Lệnh Chi ra làm quan, song lúc bấy giờ thì ông này đã chết.

Chẳng cần bình phẩm nhiều hơn về bài thơ của Lý Hanh, vì nghĩ cho cùng đó cũng chỉ là sự hỗn láo tầm thường của một gã hoàng tử quen coi người như rác. Điều đáng nói là trong bài thơ giống như kêu ca về sự đói ăn rất tầm thường kia, dường như Tiết Lệnh Chi còn bộc lộ nỗi lo lắng về thời sự thông qua dự cảm cho một tương lai về nhân cách. Là một nhà nho, ông cũng muốn giữ khí tiết cao thượng bất chấp gian khổ như lời Khổng Tử " Tuế hàn nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã " ( Mùa lạnh tới mới biết cây tùng cây bách tàn tạ sau cùng ); song là một con người, ông cũng thấy ý chí ất nơi mình cứ mỏi mòn qua nhiều tháng ngày giữa thời bình mà chẳng đủ lo hai bữa. Hơn thế nữa, một ông thầy dạy học cho Thái tử trong thời bình mà lo lắng về việc làm sao chống lạnh, thì cái mùa lạnh An Lộc Sơn - Sư Tử Minh kia quả đã chớm tới trong lòng những kẻ sĩ phục vụ cho Đường Triều đương thời rồi. Ở đây, lối đãi ngộ và đối xử với trí thức - người thầy của chính quyền Đường Minh hoàng chính bộc lộ sự suy thoái về cả khả năng tổ chức lẫn đạo đức chính trị của nó. Cố nhiên, những ngày tháng bôn ba đánh dẹp để giữ gìn ngai vàng cũng đem lại cho Đường Túc tông Lý Hanh một nhận thức khác trước về các ông thầy, song như người ta đã thấy, sau loạn An Sử thì nhà Đường không còn khả năng giữ gìn ngôi báu một cách chủ động nữa. Bởi vì chưa nói tới những tổn thất và khó khăn về kinh tế - xã hội, chỉ trên phương diện văn hoá - giáo dục thì ngay trong lối tôn trọng trên danh nghĩa và vụ lợi đối với trí thức - người thầy như vậy, nhà Đường sau loạn An Sử cũng đã là một chính quyền không có tương lai.

( Trích Giai thoại thơ Đường )

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Chim cắt ghét làm chi

Trương Cửu Linh tự Tử Thọ, người Khúc Giang. Thi đậu tiến sĩ đầu niên hiệu Cảnh Long ( 707-710 ), Trong niên hiệu Khai Nguyên (713-741) được phong làm Đồng Bình chương sự trung thư lệnh ( Tể tướng ), được coi là viên tể tướng hiền tài đức độ bậc nhất thời Minh hoàng. Có lần dinh nhật vua, các quan vào triều đều dâng những vật quý báu hiếm lạ, riêng Cửu Linh dâng sách Thiên thu kim giám lục trình bày rõ lẽ hưng phế của các triều đại, Minh hoàng rất khen ngợi. Lúc bấy giờ, thượng thư bộ binh Lý Lâm Phủ tự Kha Nô giỏi thư hoạ, tính mềm mỏng xảo quyệt, khéo quyền biến, kết giao với hoạn quan Uyển Tân, dò xét được sự động tĩnh, lòng yêu ghét của vua nên tấu đối rất hợp ý Minh hoàng, Minh hoàng muốn dùng. Cửu Linh nói " E rằng ngày sau thành mối lo của xã tắc ". Minh hoàng không nghe, phong Lâm Phủ là Đồng Trung thư môn hạ tam phẩm, cùng coi việc tể tướng. Lâm Phủ muốn làm trung thư lệnh, lại tiến cử Tiết độ sứ quân Sóc Phương Ngưu Tiên Khách làm thượng thư dự chính sự, Cửu Linh cứ nhất quyết cho là không được. Minh hoàng không bằng lòng bèn đổi Cửu Linh làmThượng thư Tả bộc xạ ( tả Thừa tướng ) nhưng thôi dự chính sự, thăng Lâm Phủ làm Trung thư lệnh. Lâm Phủ làm Tể tướng 19 năm, chuyên quyền tác oai tác phúc, thiên hạ đều ghét, cho rằng Lâm Phủ đã gây ra loạn An Sử.

Khi Lâm Phủ tiến cử Ngưu Tiên Khách bị Cửu Linh cản trở, bèn vào gặp vua tâu rằng Cửu Linh có lòng phỉ báng. Lúc ấy đang mùa thu, Minh hoàng sai Cao Lực Sĩ mang một chiếc quạt lông trắng ban cho Cửu Linh. Cửu Linh khiếp sợ bèn làm một bài phú tạ ơn, lại làm một bài thơ Yến ( chim én ) tặng Lâm Phủ như sau:

Hải yến hà vi diếu
Thừa xuân diệc tạm lai
Khởi tri nê nính tiện
Chỉ kiến ngọc đường khai
Tú hộ thời song nhập
Hoa niên nhật kỷ hồi
Vô tâm dữ vật cạnh
Ưng chuẩn mạn tương xai

Dịch thơ

Én bể thân hèn mọn
Xuân sang cũng thử về
Cánh bùn nhơ chẳng biết
Nhà Ngọc mở thời bay
Trong cửa vòng đôi chập
Rời sân lướt mấy khi
Không lòng tranh với vật
Chim cắt ghét làm chi

Lâm phủ xem thơ biết Cửu Linh sẽ xin thôi làm Tể tướng nên không có ý hãm hại nữa. Thế nhưng đến khi Cửu Linh và Bùi Diệu Khanh miễn chức Trung thư, có chiếu ban cho hai người làm Tả Hữu Bộc xạ, Lâm Phủ thấy tờ chiếu vẫn tức giận nói " Còn được làm Tả Hữu thừa tướng kia à?". Hai người lạy tạ ơn vua rồi cúi đầu rón rén về chỗ, Lâm Phủ hầm hầm nhìn theo, các công khanh có mặt tại triều đường đều nín thở không dám động đậy, về sau có người nói trộm với nhau rằng " Một con chim ưng hiếp đáp hai con thỏ ".

Trương Cửu Linh văn học hơn đời, trước tác có Khúc Giang tập, lúc chết được ban tên thuỵ là Văn hiến. Làm quan nghiễm nhiên có phong độ đại thần, người đời gọi là " ông Khúc Giang " chứ không dám gọi thẳng tên. Khi thảo kích sứ Bình Lô An lộc Sơn đánh Khiết Đan bị thua trận, Minh hoàng bỏ qua, Cửu Linh nói " Lộc Sơn thua trận mất quân, tội không thể không giết, nếu tha chết sẽ có mối lo về sau". Minh hoàng không nghe lại trọng dụng Lộc Sơn, dần phong tới chức Thái thú Hà Đông, đến khi phải chạy vào Thục tránh loạn An Lộc Sơn mới nghĩ tới lời tiên tri của Cửu Linh, rơi lệ sai sứ lập đàn tế. Từ đó về sau cứ trong triều tiến cử ai làm Tể tướng lại hỏi tả hữu " Người ấy có được phong độ như Cửu Linh không?" Có điều ông vua này quả là người mất bò mới lo làm chuồng, vì người ta đã thấy cách dùng người, và lối đối xử với đại thần của ông ta lúc Cửu Linh còn sống. Mùa thu mà đem quạt ban cho thì cái ý ta không dùng nữa, ngươi nên lui về đã rành rành, trách gì Cửu Linh phải khiếp sợ và xuống giọng năn nỉ Lý Lâm Phủ buông tha với bài thơ Chim én. Bể hoạn vốn sóng gió hiểm hoạ khôn lường, các bậc đại thần công to quyền lớn mà khi có hoạ hoạn xảy ra, dẫu có mưu trí cũng không tự bảo toàn được. Trương Cửu Linh có tài năng đức độ, nghĩ sâu thấy xa thật song là để lo việc thiên hạ mà thôi, chứ một khi bị chính nhà vua tuyên bố không dùng thì tránh được cái hoạ diệt thân cũng đã là khó rồi, còn nói gì đến việc dám chống lại kẻ quyền thần đắc sủng nữa...

( Trich Giai thoại thơ Đường )



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Wed Nov 11, 2009 4:25 pm; sửa lần 1.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Kết duyên kiếp này

Trong niên hiệu Khai Nguyên (713- 742) vua ban cho quân sĩ ngoài biên ải áo rét do nội cung may. Có người lính nhận được chiếc áo ngắn có bài thơ rằng:

Sa trường chinh thú khách
Ninh khổ nhược vi miên
Chiến bào kinh thủ tác
Tri lạc a thuỳ biên
Súc ý đa thiêm tuyến
Hàm tình cách trước miên
Kim sinh dĩ quá dã
Trùng kết hậu sinh duyên

Dịch thơ

Sa trường thân lính chiến
Lao khổ nghĩ thương nhau
Chiến bào qua thiếp cắt
Chẳng biết tới tay nào
Thêm chỉ tình vương vấn
Khâu bông ý dạt dào
Kiếp này thôi đã lỡ
Hương lửa hẹn đời sau

Người lính đem bài thơ bẩm với chủ tướng, viên tướng đưa về dâng Huyền tông. Vua đem bài thơ đưa các cung nữ xem, nói " Người nào làm đừng giấu diếm, ta không bắt tội". Có một cung nữ nói " Thần thiếp đáng muôn chết ". Vua rất thương xót, bèn gả nàng cho người lính được bài thơ. Ngày cưới, người lính nói với nàng " Ta cùng nàng kết duyên kiếp này ", tướng sĩ nơi biên ải đều cảm động rơi lệ.

( Trích Giai thoại thơ Đường )



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Wed Nov 11, 2009 4:24 pm; sửa lần 1.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Từ nay như khách qua đường lạ

Nhan Chân nguyên làm nội sử Lâm Xuyên. Vùng ấy có Dương Chí Kiên học giỏi mà không đi thi, lớn tuổi vẫn còn rất nghèo; vợ đâm chán, một hôm muốn bỏ đi. Chí Kiên ưng thuận, người vợ đòi phải viết giấy tình nguyện thoái hôn để ngày sau khỏi sinh sự rắc rối. Chí Kiên bèn viết một bài thơ đưa cho, nguyên văn như sau:

Bình sinh chí nghiệp tại cầm thi
Đầu thượng như kim hữu nhị ty
Ngư phủ thượng tri khê cốc ám
Sơn thê bất tín xuất thân trì
Kinh thoa nhiệm ý lêu tân mấn
Minh kính tùng tha biệt hoạ mi
Kim nhật tiện đồng hành lộ khách
Tương phùng tức thị hạ sơn thì

Dịch thơ

Chí ở cung đàn nghiệp ở thơ
Đến nay tóc bạc vẫn hằng mơ
Ông câu còn biết khe chưa sáng
Vợ dại không tin số phải chờ
Tóc mới thoa gai tuỳ ý đổi
Mày xanh gương sáng mặc người tô
Từ nay như khách qua đường lạ
Xuống núi, tương phùng chớ ngẩn ngơ

Người vợ đưa bài thơ tới châu xin đóng dấu chứng nhận, Chân Khanh sai gọi Chí Kiên tới hỏi, sau khi biết chuyện bèn phê vào cạnh bài thơ rằng " Vương tôn chi lẫm ký hư, khởi tuân hoàng quyển ; Chu tẩu chi thê tất khử, ninh kiến cẩm y. Ô nhục hương lư, bại thương phong tục. Nhược vô bao biếm, kiểu hãnh giả đa" ( Kẻ sĩ đã nghèo, sách vàng chớ tiếc; vợ bạc nên bỏ, áo gấm đừng nhìn. Đã gieo nhục xóm làng, lại làm hư phong hoá. Nếu không trừng trị, lữ xấu thêm nhiều), bèn sai đánh người vợ Chí Kiên 20 trượng rồi cho đi cải giá, về sau vùng ấy không có loại đàn bà khinh bỏ chồng nghèo nữa.

Nhìn từ quan điểm pháp luật thời nay, Nhan Chân Khanh sẽ bị người vợ Chí Kiên Kiện về tội lạm dụng chức quyền. Nhưng vào thời bấy giờ và từ góc độ đạo đức mà nhìn, thì việc bà ta bỏ chồng chỉ vì phu quân không làm ra tiền bằng những Chí ở cung đàn nghiệp ở thơ quả cũng tệ...Nên việc Nhan Chân Khanh ví bà ta với vợ Chu Mãi Thần rồi đánh một trận trước khi cho đi lấy chồng khác để dằn mặt hạng đàn bà coi nhân duyên là chuyện tiền định ( do tiền định đoạt ) dường như lại được người đời tán thành, bằng chứng là chẳng có sử sách nào ghi chép về câu chuyện này lại tỏ ý phê phán ông là xâm phạm quyền tự do cá nhân trong hôn nhân cả.

Riêng với Dương Chi kiên thì kể cũng tội nghiệp cho một kẻ sĩ có tài mà không có tiền, đã cam yên phận chẳng dám đua ganh với đời, chỉ tự an ủi là vận số chưa tới, còn phải đợi chờ như Lã Vọng câu cá đợi thời ở Bàn Khê...mà vẫn chẳng được yên thân. Có điều may cho ông ta là lại gặp được Nhan Chân Khanh, nên câu Xuống núi, tương phùng chớ ngẩn ngơ như sự hăm doạ của kẻ yếu trong lời thơ tình nguyện thoái hôn kia vô hình trung lại là điềm báo trước về một vận số mới. Vì sau khi bị ( hay được ) vợ bỏ bởi tội nghèo và phải tới công đường Lâm Xuyên - xuống núi để ký đơn ly dị, ông lại được Nhan Chân Khanh cho hưởng lương theo hạng tú tài, ghi tên vào sổ quân nên cũng chẳng tiếc sách vàng ở ẩn của kẻ sĩ không tiền nữa mà theo làm việc ở châu.

( Trích Giai thoại thơ Đường )



Được sửa bởi Kôn Linh ngày Wed Nov 11, 2009 4:23 pm; sửa lần 1.

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Cát vàng chảy thẳng vào mây trắng

Vương Chi Hoán cùng Vương Xương Linh, Cao Thích uống rượu trong quán, có bọn giáo phường tới ca hát. Thời bấy giờ những ca kỹ thường lấy thơ của các danh sĩ phổ nhạc để hát, nên bọn Chi Hoán nhân đó hẹn nhau rằng nếu người nào có thơ được hát nhiều thì người ấy giỏi hơn. Người ca kỹ đầu tiên bước ra hát, là bài Phù Dung lâu tống Tân Tiệm của Vương Xương Linh:

Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô
Bình minh tống khách Sở sơn cô
Lạc Dương thân hữu như tương vấn
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ

Dịch thơ

Mưa lạnh theo sông tối tới Ngô
Sáng ra đưa khách núi nam sầu
Bạn bè đất Lạc như thăm hỏi
Một mảnh lòng băng giữa ngọc hồ

Vương Xương Linh nghe xong gật gù khen hay, lấy móng tay vạch lên vách sau lưng chỗ ngồi một nét, nói " Một bài ". Người ca kỹ thứ hai bước ra hát, là bài Khốc Đan phủ Lương Cửu Thiếu phủ của Cao Thích:

Khai níp lệ triêm ứu
Khán quân tiền nhật thư
Dạ đài hà tịch mịch
Do thị Sở Vân cư

Dich thơ

Mở tráp lại rơi lệ
Luống nhìn thư cố nhân
Tuyền đài đâu vắng vẻ
Còn có bạn thơ văn

Cao Thích nghe xong tấm tắc khen hay, lấy móng tay vạch lên vách sau lưng chỗ ngồi một nét, nói " Một bài ". Người ca kỹ thứ ba ra hát, là bài Trường Tín thu của Vương Xương Linh:

Phụng chửu bình minh thu điện khai
Thả tương đoàn phiến cộng bồi hồi
Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc
Do đới Chiêu Dương nhật ảnh lai

Dịch thơ

Cung thu sáng quét mở toang rồi
Quạt cũ trên tay luống ngậm ngùi
Mặt ngọc nghĩ thua màu quạ lạnh
Còn mang bóng nhật điện vàng bay

Vương Xương Linh nghe xong nức nở khen hay, lại vạch thêm một nét trên vách, nói " hai bài ". Rồi đó cùng Cao Thích vờ làm ra vẻ đắc chí, cứ liếc nhau rồi nhìn Vương Chi Hoán tủm tỉm cười. Chi Hoán điềm nhiên chỉ người ca kỹ đẹp nhất trong bọn giáo phường nói " Nếu nàng ấy ra hát mà không phải thơ của ta thì từ nay về sau không dám so tài cùng các anh nữa". Liền đó nàng ấy bước ra hát, quả nhiên là một bài thơ đắc ý của Vương Chi Hoán, bài Xuất tái:

Hoàng sa trực thượng bạch vân gian
Nhất phiến cô thành vạn nhận san
Khương địch hà tu oán dương liễu
Xuân phong bất độ Ngọc Môn Quan

Dịch thơ

Cát vàng chảy thẳng vào mây trắng
Một mảnh thành côi núi vạn trùng
Sáo rợ trỗi chi lời liễu oán
Gió xuân đã bị Ngọc Môn phong

Ba người nghe xong vỗ tay cười ầm lên, mọi người trong quán đều ngơ ngác. Người cầm đầu bọn giáo phường bèn tới bàn hỏi, khi biết chuyện vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, vội gọi tất cả các nàng ca kỹ tới làm lễ ra mắt. Rồi đó bọn họ không ca hát nữa, gọi chủ quán dọn một bàn khác, mời ba người qua cùng nhau uống rượu, trò chuyện ngâm thơ, tấu nhạc ca hát vui vẻ với nhau đến khi thật say mới chia tay.

Bọn giáo phường tự cho là may mắn được hạn ngộ với ba vị danh sĩ, song việc họ liên tiếp hát thơ của đúng ba người cũng là một kỳ sự đối với những kẻ văn nhân. Và bài Xuất tái của Vương Chi Hoán quả là một tuyệt tác trong Đường thi, nên mới được bọn giáo phường phong nhã kia lấy làm nội dung cho tiết mục tự giới thiệu của ngôi sao trong bọn họ ( câu cuối của cả bốn bài thơ đều có thể hiểu như lời tự giới thiệu thân thế riêng của bốn nàng đồng thời thông qua đó nói về cả nhóm ). Thi pháp Đường thi lấy khí và cách làm chủ, dùng việc và cảnh nói tình, mà trên cả hai phương diện này thì bài Xuất tái đều đạt tới mức tuyệt diệu. Tình thương nhớ quê hương của ngưòi lính thú nhân dịp xuân về ở đây quả là sầu mà không bi, thương mà không oán; còn từ cảnh Cát vàng chảy thẳng vào mây trắng tới việc Gió xuân đã bị Ngọc Môn phong thì các yếu tố cảnh và tình, thực và ảo đã đan xen, kết hợp, chuyển hoá vào nhau dưới một cái nhìn xuất sáo, một ngòi bút tài hoa. Sở dĩ Xuất tái phù hợp với tâm trạng của những người cô độc tha hương và tâm trạng của những người sống trong nghịch cảnh ( nàng ca kỹ kia là một ví dụ ) chính vì nó tạo được những kết hợp ảo để tả các cảnh ngộ thực, tạo được một không gian chung cho nhiều ý niệm riêng...

Vương Chi Hoán người Tinh Châu, trong niên hiệu Thiên Bảo ( 743-755 ) cùng anh là Chi Hàm, Chi Bí nổi tiếng văn chương ( có lẽ ba anh em sinh ra trong một gia đình trí thức, vì tên của họ là tên của ba quẻ Trạch Sơn Hàm, Sơn Hoả Bí Phong Thuỷ Hoán trong kinh dịch ). Thơ văn của Vương Chi Hoán rất nhiều nhưng bị mất mát gần hết trong loạn An Sử, chỉ còn có sáu bài. Bài Cửu nhật tống biệt như sau:

Bằng đình tiêu sách cố nhân hy
Hà xứ đăng cao thả tống quy
Kim nhật tạm đồng phương cúc tửu
Minh triêu ưng tác đoạn bồng phi

Dịch thơ

Đình hoang xơ xác người xưa ít
Đâu chốn lên cao tiễn kẻ về
Nay vẫn còn chung men rượu cúc
Mai ngày đã hoá cánh bồng xoay

Bài thơ như bức tranh chỉ chấm phá vài nét, mà tình bạn đưa nhau giữa ngày 9 tháng 9 - tiết trùng dương hiển hiện. Ly đình xơ xác vì lòng người buồn bã, bạn bè thưa thớt và là cảnh tiễn biệt, kẻ tiễn không phải không có chỗ lên cao nhìn theo mà thật lòng không muốn lên cao để nhìn theo người đi; và người đi chưa đi mà trong buổi tiệc họp mặt ngát mùi rượu cúc tiễn đưa đã thấp thoáng cánh cỏ bồng cô đơn xoay giữa gió thu, một cánh cỏ bồng mang mang nhớ nhung về sắc hoa vàng và mùi rượu cúc. Dự cảm về một quá khứ chưa xảy ra ấy trùm lên toàn bộ bài thơ, và nếu nhớ lại rằng Trung Hoa có phong tục họp mặt bạn bè để vui chơi trong ngày tiết trùng dương, người ta sẽ thấy được ở đây nỗi xót xa của những người họp mặt giữa tiết trùng dương tiễn bạn. Thực tế giống như tàn nhẫn ấy kết hợp với cái logic mờ về một thời gian ảo trong dự cảm nói trên đã xoá nhoà toàn bộ không gian cụ thể của một lần đưa tiễn, biến ngày trùng dương hopk mặt buồn bã kia thành ngày trùng dương tiễn biệt của muôn đời. Dường như với Vương Chi Hoán thì tiễn biệt là đề tài sở trường . Hãy thử đọc một bài thơ khác của ông, bài Tống biệt:

Dương liễu Đông môn thụ
Thanh Thanh giáp ngự hà
Cận lai phàn chiết khổ
Chỉ vị biệt ly đa

Dịch thơ

Dương liễu ngòi đông mọc
Xanh xanh ánh nước mây
Gần đây vin bẻ khó
Chỉ bởi lắm chia tay

Tương tự bài Cửu nhật tống biệt, bài Tống biệt này cũng không nêu rõ ai tiễn ai đi, thậm chí cũng khó mà biết tác giả là kẻ bàng quan hay người trong cuộc. Nhưng bài thất ngôn trên chỉ nhắc qua một chốn ly đình không cụ thể để khắc sâu lên văn chương một ngày trùng dương ly biệt, thì bài ngũ ngôn này lại quy tụ toàn bộ tứ thơ vào không gian cụ thể của một cây dương liễu để mở rộng tới vô cùng thời điểm của cuộc chia tay. Người Trung Hoa xưa thường bẻ cành liễu để tặng người lên đường vào lúc chia tay, nên những cuộc chia tay ở đây đều để lại dấu vết trên cây dương liễu, vì biệt ly nhiều, nhiều người trước bẻ khiến cành liễu ít đi nên người sau khó bẻ, hay vì đã nhiều lần bẻ cành liễu để đưa những người đi không hẹn ngày trở lại nên mỗi lần giơ tay bẻ liễu là một lần nghe lòng ngần ngại xót xa ? Ở đây cũng có một logic mờ tạo ra một không gian ảo, bởi cây dương liễu ghi dấu chỗ chia tay nơi cửa Đông giáp ngòi ngự ( ngòi nước trong cấm thành chảy ra ) kia còn là tâm tình của người đưa tiễn; song trên chữ nghĩa thì nó quá cụ thể nên thời điểm chia tay thành ảo, và hình ảnh cây dương liễu nơi đưa tiễn trong bài thơ đã ngưng đọng lại như một hình tượng về tấm lòng e ngại cảnh chia tay...

Bài mộ chí Thứ sử Trừ Châu Trịnh Lư của Bạch Cư Dị cho biết ngoài Vương Xương Linh; Vương Chi Hoán còn cùng Trịnh Lư, Thôi Quốc Phụ lấy thơ văn kết bạn, kẻ xướng người hoạ, nổi tiếng một thời.

( Trích Giai thoại thơ Đường )

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Tìm đâu được chốn trồng dâu nuôi tằm

Nữ lang Trương Yểu Điệu giỏi văn chương, tránh loạn vào đất Thục, có làm bài Thượng Thành Đô tùng sự ( Lên Thành Đô, kể việc ) rằng:

Tích nhật mại y thường
Kim nhật mại y thương
Y thường hồn mại tận
Tu kiến giá thời sương
Hữu mại sầu nhưng hoãn
Vô thời tầm chuyển thương
Cố viên hữu lỗ cách
Hà xứ sự tàm tang

Dịch thơ

Hôm kia vừa bán áo xiêm
Hôm nay lại bán áo xiêm nữa rồi
Áo xiêm cứ bán lần hồi
Nhìn rương đồ cưới ngậm ngùi cho ai
Có mà bán cũng còn may
Đến khi hết, biết chua cay thế nào
Vườn xưa lửa giặc còn cao
Tìm đâu được chốn trồng dâu nuôi tằm

Bài thơ chỉ chấm phá vài nét mà đã hiện ra bức tranh khá chân thực về cảnh sống của một thiếu phụ gia đình trung lưu chạy loạn, phải bán tới cả quần áo cưới sống qua ngày và chỉ mong hết giặc giã để được trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ dệt vải mà may lại đồ cưới kỷ niệm buổi vu quy...Nhưng ước mơ tuy nhỏ nhoi ấy vẫn là một hiện thực ngoài tầm tay với: trên mặt thành Thành Đô nơi cõi Thục, người thiếu phụ kia vẫn phải đắng cay nhìn về phía vườn xưa còn giặc giã mà tự xót xa thân phận trong nỗi niềm hoài vọng cố hương.

Bên cạnh đó, là một con người tài hoa, Trương Yểu Điệu còn ôm một mối u tình nhuốm vẻ trái ngang trong thời ly loạn. Bài Ký cố nhân ( Gởi cố nhân ) cho thấy thêm ngoài ước mơ về cuộc sống bình yên với tâm tư thanh thản, nàng còn khao khát tới tình yêu lứa đôi trong hạnh phúc gia đình:

Đạm đạm xuân phong hoa lạc thì
Bất kham sàu vọng cánh tương ti ( tư )
Vô kim khả mãi Trương Môn phú
Hữu hận không ngâm Đoàn phiến thi

Dịch thơ

Gió xuân lặng lẽ lúc hoa rơi
Buồn bã trong mong lại nhớ người
Bài phú văn nhân khôn chuốc được
Lời thơ sầu oán mãi ngâm thôi

Tự ví mình như Trần Hoàng hậu bị ruồng bỏ ra ở cung Trường Môn nhưng không tìm được kẻ văn nhân nổi tiếng như Tư Mã Tương Như viết giúp bài Trường Môn phú tỏ lòng khiến nhà vua hồi tâm sủng ái, Yểu Điệu cũng ngậm ngùi thấy mình giống Ban Tiệp dư thất sủng ra ở cung Trường Tín buồn tủi với câu thơ về chiếc quạt trong bài Oán thi hành mong được đoàn tụ với người mình yêu thương " Tài thành hợp hoan phiến, Đoàn đoàn tự minh nguyệt " ( Kết lá quạt hợp hoan, tròn tròn như trăng sáng ). Sự so sánh với thân phận hoàng hậu, phi tần ở đây dĩ nhiên mang tính chất ước lệ, nên hai câu cuối đương nhiên cũng mang ý nghĩa khác, điều này cho phép nghĩ rằng có lẽ vợ chồng người tài tử họ Trương này đã rơi vào cảnh sinh ly hay tử biệt trong những ngày tháng ly loạn. Không lạ gì mà thái độ chủ động đối với tình yêu của thi nhân ở đây chỉ gói gọn trong sự đợi chờ và buồn bã - rõ ràng những điều chính mình trải qua trong ly loạn đã huỷ diệt hết nơi người phụ nữ này cả niềm hy vọng lẫn sự tự tin về quyền hạnh phúc của bản thân.

Từ rương áo quần ngày cưới cứ ít dần như một quá khứ tươi đẹp hao mòn trong ký ức tới lời thơ sầu oán cứ ngâm hoài như một tương lai đau buồn trong dự cảm, thơ Trương Yểu Điệu dường như chỉ là tiếng lòng riêng tư về hạnh phúc cá nhân. Nhưng tình cảm có vẻ nhỏ nhoi ấy lại là mối bận tâm chính đáng của hàng triệu con người, nên với hai bài thơ trên đây Trương Yểu Điệu vô hình trung đã trở thành người đại biểu, kẻ phát ngôn cho tâm tình của những phụ nữ không may bị chiến tranh cướp đi cả tuổi xuân, ước mơ và hạnh phúc. Chỗ sâu lắng của thơ nàng là không có tiếng khóc xé lòng và nước mắt tuôn rơi trước những tổn thất vật chất cụ thể mà chiến tranh đem lại, mà nặng trĩu tâm trạng đau buồn và tâm tư trầm uất của hàng triệu con người vô tội bị chiến tranh tước đoạt cả quá khứ lẫn tương lai...

Trương Yểu Điệu không rõ quê quán và hành trạng, làm thơ lập tứ thanh kỳ, lời lẽ thê nhiên, được các thi nhân đồng thời rất xưng tụng, tiếc là tác phẩm được truyền lại đến nay chỉ còn có hai bài.

( Trích Giai thoại thơ Đường )

Kôn Linh


Bạn Sơ Giao
Bạn Sơ Giao

Nhớ hoài trăng núi cũ

...Nhân hữu bi hoan ly hợp
Nguyệt hữu âm tịnh viên khuyết
Thử tự cổ nan toàn

(...Người có buồn vui tan hợp
Trăng có tỏ mờ tròn khuyết
Từ xưa khó vẹn toàn )

Nhìn nhận cuộc sống con người từ quy luật của tự nhiên, Tô Thức với đoạn trong bài Thuỷ điệu ca đầu nói trên đã nhắc đến một nỗi buồn lớn của nhân sinh - nỗi buồn ly biệt. Quả thật sau nỗi khổ sinh lão bệnh tử, điều làm người đời bận tâm nhiều hơn cả có lẽ là những cuộc chia tay, những cuộc chia tay nhiều khi mang mùi vị đắng cay tới mức khiến họ phải xếp nỗi buồn sinh ly sau niềm đau tử biệt. Hiện thực thế nhân ấy cũng tràn vào tác phẩm của các thi tăng đời Đường, nhưng đáng nói là nhiều khi như một minh chứng cho tôn chỉ vạn sự giai không, kết hợp ý đạo với tình đời ở đây lại làm nên một biệt sắc trong thơ văn của những người coi cuộc sống là phù du, nhân sinh là ảo ảnh.

Sư Pháp Chiếu có bài Tống thiền sư quy Tân La như sau:
Vạn lý quy hương lộ
Tuỳ duyên bất toán trình
Đăng sơn bách nạp tệ
Quá hai nhất bôi khinh
Dạ túc y vân sắc
Thần trai tựu thuỷ thanh
Hà niên trì bối diệp
Khước đáo Hán gia thành?

Dịch thơ

Muôn dặm về quê cũ
Lâu mau phó chữ duyên
Lên non áo rách lối
Qua bể chén đưa thuyền
Ngủ giữa màu mây kết
Ăn trong tiếng suối rền
Năm nào kinh lá bối
Lại chở tới Trung Nguyên?

Đưa người đồng đạo Triều Tiên về lại nước cũ Tân La, sư Pháp Chiếu cũng bộc lộ tình lưu luyến, lòng mến thương qua hai câu thơ cuối. Nhưng bài thơ tuyệt nhiên không có nỗi đau thương, không có lời oán hận, mà ngược lại, lại vẽ ra tư thái ung dung thanh thản của một cao tăng trên đường trở lại quê xưa. Nẻo thiên sơn vạn thuỷ, cảnh ăn bụi ngủ bờ không làm bận lòng cả người đi lẫn kẻ ở, bởi đi lâu hay mau, gặp lành hay dữ thì cả hai đều quan niệm là tuỳ duyên. Cuộc tiễn đưa không phải là không nặng tình, song thái độ tuỳ duyên được khẳng định ngay đầu bài thơ đã mở ra cho mối tình đồng đạo ở đây một không gian biệt ly vượt khỏi những tiếc thương, buồn đau thế tục. Chính vì vậy mà nói cho cùng thì việc nhà sư Tân La kia có trở lại đất Trung Hoa và tái ngộ sư Pháp Chiếu hay không cũng chẳng phải là điều làm hai người trăn trở, bởi trở lại hay không trở lại, tái ngộ hay không tái ngộ thì cũng đều vì đạo pháp, bởi nhân duyên...

Đầu niên hiệu Chí Đức ( 756 - 758 ) Vương tử nước Tân La là Kim Địa Tạng vượt bể tới Trung Hoa, vào ẩn cư tu hành trong núi Cửu Hoa, có một tiểu đồng người Trung Hoa theo hầu hạ. Sau người tiểu đồng xin về, sư làm bài Tống đồng tử hạ sơn rằng:

Không môn tịch tịch nhữ tư gia
Lễ biệt vân phòng hạ Cửu Hoa
Ưu hướng trúc lan ky ( kỵ ) trúc mã
Lãn ư kim địa tụ kim sa
Thiên bình giản để hưu chiêu nguyệt
Phanh dánh âu trung bãi lộng hoa
Hảo khứ bất tu tần hạ lệ
Lão tăng tương bạn hữu yên hà

Dịch thơ

Vắng vẻ thiền môn chú nhớ nhà
Lạy chào sư cụ xuống non Hoa
Ngựa tre tơ tưởng niềm nhân thế
Cửu Phật lơ là chuyện xuất gia
Trăng cạn đáy khe thô múc gánh
Hoa sôi trong ấm hết pha trà
Lên đường khoẻ mạnh, đừng rơi lệ
Mây khói cùng sư vẫn bạn mà

Khác với sư Pháp Chiếu chia tay với một người trong cửa thiền, ở đây sư Kim Địa Tạng chia tay với một người rời bỏ cuộc sống tu hành trở về cùng thế tục. Cho nên trong bài thơ có tới hai cuộc chia tay : cuộc chia tay giữa người tiểu đồng với lý tưởng tu hành lồng trong cuộc chia tay giữa chú ta cùng tác giả. Nhưng mang tấm lòng về lại với đời thường, người tiểu đồng kia cũng lập tức phát sinh tục niệm với những giọt lệ thế nhân trong giờ ly biệt. Thái độ hồn hậu trong lời an ủi của sư Kim Địa Tạng ở hai câu cuối rõ ra tấm lòng bao dung của một vị cao tăng đắc đạo, song chính vì vậy mà ở đây xuất hiện một nghịch lý trong cái thế song hành tương phản: kẻ trở về với gia đình hằng mong ước dường như lại thấy mình mất mát nên rơi nước mắt, còn người ở lại lẻ loi trong cô tịch vẫn thản nhiên thấy mình còn đủ cả người quen bạn cũ giữa cảnh yên hà trên núi Cửu Hoa...

Nhân hữu bi hoan ly hợp...Những người trong cửa thiền cũng có lúc phải chia tay và cũng đều cảm xúc lúc chia tay, nhưng họ nhìn nhận hay cố gắng nhìn nhận những cảm xúc ấy bằng con mắt thản nhiên, hay nói đúng hơn, cố gắng đồng quy những xử cảnh, nhất hoá những cảm xúc ấy vào với nhịp điệu hữu sinh hữu diệt thường hằng của dòng đời vô tận vô cùng miên viễn. Chính trên đường hướng này mà vào một ngày cuối xuân tiễn bạn, sư Vô Muộn đã viết bài Mộ xuân tống nhân:

Chiết liễu đình biên thủ trụng huề
Giang yên đạm đạm thảo thê thê
Đỗ quyên bất cố ly nhân ý
Cánh hướng lạc hoa chi thượng đề

Dịch thơ

Vin liễu giơ tay mãi cạnh đình
Khói sông nhàn nhạt cỏ xanh xanh
Đỗ quyên chẳng nghĩ người ly biệt
Lại cứ kêu hoa rụng dưới cành

Bài thơ như một bức tranh ở đó một khoảnh khắc của cuộc tiễn đưa được tác giả khắc hoạ trong một giây ngưng thần: người tiễn giơ tay lần thứ hai mà chưa nỡ bẻ cành liễu tặng người đi, giơ tay bẻ liễu mà mắt nhìn ra bờ sông xa tít tắp cỏ xanh và nhạt nhoà khói sóng, trong khi tai nghe tiếng chim cuốc kêu ran dưới gốc dương tả tơi hoa rụng còn tâm tư thì liên tưởng tới việc tạo vật vô hình. Ở đây thi pháp Đường thi với tâm thức thiền môn đã được kết hợp một cách tài tình: người cứ chia tay còn cuốc cứ kêu xuân chẳng cần biết tới mối tình ly biệt, chim đầu hạ không kêu cho hoa cuối xuân song mối ly tình lại gắn tiếng chim hạ kêu với cảnh hoa xuân rụng, mà mối liên hệ chim kêu - hoa rụng kia tự nó lại hàm chứa sự tiếp nối xuân - hạ tự nhiên của đất trời tạo vật, cũng giống như đời người hết hợp rồi tan...

Nguyệt hữu âm tịnh viên khuyết...Dĩ nhiên, thông thường cuộc chia tay nào cũng có kể ở người đi, và trong ba bài thơ trên thì ba nhà sư Pháp Chiếu, Kim Địa Tạng, Vô Muộn đều đóng vai trò kẻ tiễn. Trong một vai trò ngược lại, sư Thương Hạo làm bài Lưu biệt gia hương tri kỷ để từ giã bạn bè trước khi rời chùa Đông Lâm:

Nhất toạ Đông Lâm tự
Tùng lai vị hạ san
Bất nhân tầm trưởng giả
Vô sự đáo nhân gian
Túc vũ sầu vi khách
Hàn cầm tán vị hoàn
Không hoài cựu sơn nguyệt
Đồng tử tụng kinh nhàn

Dịch thơ

Một bận lên chùa học
Hôm nay mới hạ san
Chẳng mong tìm trưởng giả
Bởi rảnh tới nhân gian
Mưa tối cho buồn khách
Chim côi chửa hợp đàn
Nhớ hoài trăng núi cũ
Lúc nhỏ tụng kinh nhàn

Thông thường trong những cuộc chia tay người đi vẫn là kẻ mang tâm trạng bị xáo trộn nhiều hơn, nên ở đây tâm tình của sư Trương Hạo cũng bị xáo trộn trước khi chính thức bước vào cảnh sống của một thiền sư vân du hành đạo. Đáng chú ý là ông lại tự cho rằng mình rời chùa Đông Lâm không phải để tìm những người trưởng giả có thiện duyên nhằm hoằng dương phật pháp, mà chỉ vì nhàn rỗi nên bước vào chốn nhân gian. Song người ta lại thấy ông dự cảm về nỗi buồn làm khách trên đường giữa đêm mưa đồng thời trăn trở cảnh bầy chim lạnh bay tan trong một liên tưởng thân côi vắng bạn. và một cách tự nhiên, ông cũng theo hoài niệm trở về dĩ vãng, ở đó dưới vầng trăng lung linh màu kỷ niệm, ông và bạn bè còn là những tiểu đồng chuyên cần kinh kệ trong một tâm trạng vô lo...

Tuy nhiên, nếu chỉ như vậy thì bài thơ của sư Trương Hạo chẳng có gì đáng gọi là thơ thiền. Nó mang một cấu trúc chìm riêng với đầu mối nằm ở sự liên hệ giữa câu bốn với câu tám. Tác giả xuống núi vì nhàn rỗi và nhớ mãi những ngày xưa nhàn rỗi! Điểm bất thường nếu không nói là phi lý này đòi hỏi phải được giải thích, và chỉ có thể giải thích nó trên cơ sở một cách giải mã khác, một hướng tiếp cận - cách nhận thức khác đối với chữ nghĩa bài thơ. Từ giã những cảnh sống nhàn ngày cũ để bước vào cuộc tiêu dao trong cảnh sống không nhàn, sư Trương Hạo đã mang tấm lòng nhàn - đạo tâm giúp ông nhìn thấy nơi vầng trăng không chỉ một vầng trăng nữa. Và trên lằn ranh giữa hai cảnh sống mà cũng là hai thế giới nhận thức - ứng xử này, ông đã hiểu rằng cuộc chia tay với các bạn tri kỷ ở chùa Đông Lâm thực ra cũng là cuộc chia tay với chính mình trong quá khứ. Cho nên vầng trăng trong hoài niệm của sư Trương Hạo không phải là vầng trăng tự nhiên với những tỏ mờ tròn khuyết trong bài Thuỷ điệu ca đầu của Tô Thức mà là một vầng trăng biểu kiến, nó vằng vặc mãi ánh sáng an nhiên trầm mặc toả ra từ một tấm lòng phá chấp đã hoà vào cảnh giới của không gian tịch diệt vô sinh...

Đưa người đi sư Pháp Chiếu nói Lâu mau phó chữ duyên, sư Kim Địa Tạng nói Lên đường khoẻ mạnh, đừng rơi lệ, sư Vô Muộn nói Đỗ quyên chẳng nghĩ người ly biệt. Từ biệt bạn, sư Trương Hạo nói Nhớ hoài trăng núi cũ. Cả bốn người đều hướng tới một bản chất sau hiện tượng, một quy luật trong khoảnh khắc của cuộc đời và nhận thức để ứng xử. Có lẽ đi hay ở, tan hay hợp đối với nhà Phật đều là chuyện nhân duyên...

( Trích Giai thoại thơ Đường )

Hàn Phong

Hàn Phong
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

hi đệ, lâu quá huynh mới lên lại, cảm ơn đệ đã chịu khó nhé, huynh sẽ chép về ĐT đọc lúc rảnh thank thank

http://thohanphong.blogspot.com/

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết