Lý Thế Dân
Đường Thái tông Lý Thế Dân làm mười bài thơ Đế kinh, bài tựa có đoạn rằng "Ta lúc việc nước nhàn rỗi, nghỉ ngơi ở văn chương, xem viếc Đế vương các đời, ngẫm việc trị bình trước mắt...ngậm ngùi hoài cổ, nhớ bậc triết nhân, muốn nối phong thái Thuấn Nghiêu, bỏ tệ đoan Tần Hán. Dùng văn chương đẹp đẽ, đổi lời lẽ mo màng, cốt ở lòng người, chẳng phải là khó. Cho nên xem văn giáo ở sáu kinh, xét võ công nơi bảy đức, đài các xa nơi nước lửa, vàng đá hoà với lòng người, giữ mực chỗ trung hoà, không rơi vào phóng đãng thì ngòi rãnh đủ vui cần gì sông biển, gác Lân đủ ngắm cần gì núi gò, người trung đủ giao tiếp cần gì thần tiên, kinh đô đủ dạo chơi cần gì tiên giới? Nếu loại bỏ quả tìm hoa, phóng tâm theo ý, làm loạn đạo lớn thì bậc quân tử lấy đó làm điều xấu hổ. Vì vậy làm thơ Đế kinh để nêu rõ ý nguyện về văn chương nhã chính mà thôi".
Đương nhiên, một ông vua như Lý thế Dân phải hướng văn nghệ vào những con đường có lợi hay ít ra là vô hại đối với quyền lực vương triều, đây là yếu tố quy định tính mục đích rất minh bạch của bài tựa nói trên. Có điều phía trên (hay phía dưới) cái ý thức dùng văn nghệ phục vụ chính trị ấy vẫn có một điểm khả thủ, đó là theo tác giả, văn chương phải vì thế đạo, thi sĩ phải vị nhân sinh. Và hãy xem cái thực tế về thế đạo và nhân sinh của ông vua có được giang sơn nhờ thanh gươm yên ngựa này qua bài thơ
Nhược liễu minh thu thiền
( Ve thu kêu trên liễu yếu )
Tán ảnh ngọc giai liễu
Hàm thuý ẩn minh thiền
Vi hình tàng diệp lý
Loạn hưởng xuất phong tiền
Bài Dịch:
Bóng liễu qua thềm ngọc
Ve kêu sắc biếc tràn
Nhỏ nhoi nằm dưới lá
Trước gió giọng ran ran
Nhìn về phương diện nghệ thuật, đây cũng là một bài thơ hay. Nhưng tiếng ve ran trước gió theo bóng liễu phất qua thềm ngọc kia vẫn có một cái gì đó không bền vững, nhất thời mong manh. Dường như Lý Thế Dân trị vì mà không làm chủ được thế đạo và nhân sinh trong cương giới của Đường triều. Hãy thử đọc thêm một bài nữa, bài
Bạch nhật bàng tây sơn
( Mặt trời lặn xuống non tây )
Hồng luân bất tạm trú
Ô phi khởi phục đình
Nham hà tiệm tiệm lạc
Khê âm thốn thốn sinh
Hoắc diệp tuỳ quang chuyển
Qùy tâm trục chiếu khuynh
Vãn yên hàm thụ sắc
Thê điểu tạp lưu thanh
Bài Dịch:
Vầng đỏ chẳng thôi chuyển
Bóng ô đâu ngớt bay
Gò cao màu ráng lịm
Suối biếc bóng râm dài
Lá đậu xoay theo ánh
Hoa quỳ nghiêng hướng tây
Cây chiều in sắc khói
Chim ngủ rộn theo bầy
Bài thơ không chỉ đơn thuần tả cảnh mặt trời lặn phía non tây, vì đối một ông vua như Lý Thế Dân, việc chọn một đề tài như vậy còn là một cuộc tự trắc nghiệm về tri thức và tinh thần, một sự tự thử thách về quyền uy và tâm lý. Và cũng tương tự bài Nhược liễu minh thu thiền tả tiếng ve mùa thu, bài Bạch nhật bàng tây sơn tả mặt trời phía tây này là một thành công của Lý Thế Dân thi sĩ nhưng là một thất bại của Đường Thái tông hoàng đế. Tại chỗ giao thời trên vòng tuần hoàn ngày đêm của tự nhiên - ngoại giới nói trên, con mắt của ông vua sáng lập triều Đường quả cũng bắt gặp được lòng trung thành của cánh hoa quỳ luôn hướng theo ánh nhật. Nhưng rõ ràng đoá hướng dương cô độc ấy vẫn bị chìm lấp bởi những ánh chiều bóng râm, những tiếng chim sắc khói cứ tràn ra khi nắng tắt, và hoàn toàn không giữ được cho mặt trời không rơi xuống non tây...dướng như một khi đối diện với tạo vật và tự ngắm vào lòng mình, người đứng đầu của Trung Hoa, vị chúa tể của Đường triều này đều cảm thấy bất an, bất lực trước một cái gì đó không thể nắm bắt và nhận thức, không thể làm chủ và chế ngự. Có lẽ đây là chỗ bắt đầu của những thất bại tại ngai vàng và cô đơn trong quyền lực ; cố nhiên là của mọi ông vua.
Có một lần Đường Thái tông làm thơ theo thể Cung từ rồi sai văn thần là Ngu Thế Nam hoạ. Thế Nam nói " Bệ hạ làm thơ rất hay, song đó không phải là thể thơ nhã chính. Người trên mà yêu thích, kẻ dưới sẽ làm quá. Thơ này mà truyền ra, văn phong trong thiên hạ sẽ rối loạn, thần thật không dám phụng chiếu". Về sau Thái tông làm một bài thơ ghi lại việc hưng phế thời cổ, làm xong lại than rằng "Chung Tử Kỳ chết Bá Nha không rảy dàn nữa. Thơ này của Trẫm biết đưa ai xem", rồi ra lệnh cho Thế Nam đốt đi.
Chủ trương làm thơ nhã chính vì nhân sinh và cho thế đạo, Lý Thế Dân đã phải nhượng bộ quan niệm chính thống đương thời khi Ngu Thế Nam không chịu hoạ thơ ngự chế. Nhưng ngay cả với những bài thơ nhã chính, ông vua thi sĩ này cũng có những lúc thấy mình thất bại tại ngai vàng và cô đơn trong quyền lực. Và đó không phải là điều hài hước, vì khám phá đời sống bằng tư duy nghệ thuật, người ta sẽ nhận ra một chân lý, là thế đạo và nhân sinh tự chúng đều vượt ra khỏi phạm vi nhận thức của mọi vua chúa cũng như quyền lực của mọi vương triều.
( Trích Giai thoại thơ Đường )