CAO BÁ NHẠ
Tự Tình Khúc
Ông Cao Bá Đạt cùng ông Cao Bao Quát là hai anh em nổi tiếng văn chương đời bấy giờ. ông Nhạ là con ông Đạt, năm Tự Đức thứ 6 (1854) gặp gia biến, trốn ở hạt Mỹ Đức, được tám năm bị bắt. Khi giam trong ngục, làm bài tự tình này.
Tỉnh giấc mộng ngâm câu ký vãng
Trải tám thu ngày tháng như thoa
Chiếc thân tựa gối quan hà
Nỗi niềm tâm sự trăng già thấu chăng
Thơ cao ẩn tay đằng nên tập
Bức linh đài bút dập vào tranh
Bâng khuâng mình tiếc cho mình
Xa xa nói với xanh xanh giãi lòng
Ngòi Đức Thủy khơi dòng kinh sử
Phả Cao Dương treo chữ tấn thân
Dõi đời khoa bảng xuất thân
Trăm năm lấy chữ thanh cần làm bia
Đèn Mông Chính canh khuya một ngọn
Màn Trọng Thư năm trọn nửa vây
Chim hồng mong chắp cánh mây
Năm xe kinh sử một tay vẽ vời
Lửa Thái Ất đêm soi Lưu Hướng
Cầu Thăng Tiên ngày tưởng Tràng Khanh
Gót chân coi nhẹ vân trình
Văn chương dốc túi công danh giật cờ
Nền thế nghiệp đã nhờ gia ấm
Miền họa đồ lại lắm thiên ân
Trước sau trải mấy mươi lần
Môn phong vẫn giữ trung cần dám sai
Ngẫm tiên phụ nửa đời khổ tiết
Để mai sau một ít vi danh
Hoạn giai nhỏ mọn đã đành
Trong vòng Thù Lệnh phẩm bình còn khen
Dấu trung ẩn in miền mây trắng
Chữ mục dân bóng dựng non vàng
Bức tranh treo chữ tuần lương
Ngư dương hát lúa Hà dương vịnh đào
Giá cầm hạc so vào Triệu Biện
Thư phụng hoàng đưa đến Mao Khanh
Móc mưa ơn đội thánh minh
Thánh minh hai chữ góp danh với đời
Vườn Lý Bạch chưa vui đào mận
Nhà Từ Văn nổi trận phong ba
Thương ôi hảo sự tiêu ma
Tấm lòng băng tuyết phút hòa trần ai
Tự Tình Khúc
Ông Cao Bá Đạt cùng ông Cao Bao Quát là hai anh em nổi tiếng văn chương đời bấy giờ. ông Nhạ là con ông Đạt, năm Tự Đức thứ 6 (1854) gặp gia biến, trốn ở hạt Mỹ Đức, được tám năm bị bắt. Khi giam trong ngục, làm bài tự tình này.
Tỉnh giấc mộng ngâm câu ký vãng
Trải tám thu ngày tháng như thoa
Chiếc thân tựa gối quan hà
Nỗi niềm tâm sự trăng già thấu chăng
Thơ cao ẩn tay đằng nên tập
Bức linh đài bút dập vào tranh
Bâng khuâng mình tiếc cho mình
Xa xa nói với xanh xanh giãi lòng
Ngòi Đức Thủy khơi dòng kinh sử
Phả Cao Dương treo chữ tấn thân
Dõi đời khoa bảng xuất thân
Trăm năm lấy chữ thanh cần làm bia
Đèn Mông Chính canh khuya một ngọn
Màn Trọng Thư năm trọn nửa vây
Chim hồng mong chắp cánh mây
Năm xe kinh sử một tay vẽ vời
Lửa Thái Ất đêm soi Lưu Hướng
Cầu Thăng Tiên ngày tưởng Tràng Khanh
Gót chân coi nhẹ vân trình
Văn chương dốc túi công danh giật cờ
Nền thế nghiệp đã nhờ gia ấm
Miền họa đồ lại lắm thiên ân
Trước sau trải mấy mươi lần
Môn phong vẫn giữ trung cần dám sai
Ngẫm tiên phụ nửa đời khổ tiết
Để mai sau một ít vi danh
Hoạn giai nhỏ mọn đã đành
Trong vòng Thù Lệnh phẩm bình còn khen
Dấu trung ẩn in miền mây trắng
Chữ mục dân bóng dựng non vàng
Bức tranh treo chữ tuần lương
Ngư dương hát lúa Hà dương vịnh đào
Giá cầm hạc so vào Triệu Biện
Thư phụng hoàng đưa đến Mao Khanh
Móc mưa ơn đội thánh minh
Thánh minh hai chữ góp danh với đời
Vườn Lý Bạch chưa vui đào mận
Nhà Từ Văn nổi trận phong ba
Thương ôi hảo sự tiêu ma
Tấm lòng băng tuyết phút hòa trần ai