Bài tựa
Ông Chủ nhân Nam Ký vốn trước có cùng tôi quen biết. Đương An Nam tạp chí tiến hành ở Hàng bông – Hà Nội, ông có qua thăm bảo quán; trong khi đàm luận về công việc văn học, ông muốn tôi có ngày về làm sách cho vui. Vậy thời quyển Văn Đàn Bảo Giám này sau khi in ra mà tôi được dự có một phần công nhỏ ở cuối ít nhiều trang, cũng là ước cũ duyên xưa vậy.
Tập Bảo Giám này do tay ông Nam Ký cầm đến giao cho tôi ở một nơi biệt ngụ tại Hà Nội, ông ủy thác toàn trách nhiệm muốn thêm bớt, hoặc chú giải, tùy ý. Sau khi tôi đem về Sơn Tây, ngày đêm xét kỹ, thấy trong có nhiều bài của cổ nhân, thực là văn chương kim ngọc, đáng hai chữ “Bảo Giám” thay! Tiếc vì bài là bài sưu tập, văn là văn cổ xưa cho nên không khỏi có nhiều chữ không hiểu nghĩa, mà tự tài học vấn và cái sức thông minh của mình không đủ đoán ra những chữ nghi ngờ ấy, thực đối với Nam Ký chủ nhân không được hết nghĩa vụ, mà đối với các bạn Độc giả không khỏi chút thẹn thò. Còn như một phiến ngu thành tưởng người đọc qua quyển đây, hoặc có thể lượng xét.
Tập này sưu tầm rất rộng, các thể văn có lẽ hồ hết; mà phần các bài trong các thể xem ra cũng rất nhiều. Phàm việc làm hơi có ý tham, thời không khỏi xô đồ, mà mắt cá thắng hạt trai, thực bệnh chung kim cổ. Nay ông đã ủy cho tôi được có trách nhiệm thêm, bớt, dẫu không dám bạo tay làm quá, song những bài kém quá, hoặc toàn không rõ nghĩa, cũng có bỏ đi nhiều ít, chừng độ bốn năm phần trong trăm phần. Còn những bài tuy không lấy gì làm hay, mà lời văn cũng xuôi, hoặc là có cổ sắc đặc biệt thời không dám san tước, e có phụ công người sưu tập chăng! Nói về phần thêm thời toàn nhiên tôi không có thêm một bài nào ở trong tập.
Cứ cái hứng thú của tôi đối với những bài cho là có giá trị, mà sắc tướng khác nhau, xin lược biểu nhiều ít:
Thơ thất ngôn như hai câu của cụ Trạng Trình:
Giăng trong gió mát là tương thức,
Nước biếc non xanh ấy cố tri.
Tuy chưa thần tiên, cũng đã thanh cao đến tuyệt vậy.
Thơ tứ tuyệt thời như bài “Đèn kéo quân” của cụ Thượng Giai:
Một lũ ăn mày, một lũ quan,
Quanh đi quẩn lại cũng một đoàn.
Đến khi dầu hết, đèn không cháy,
Chẳng thấy ăn mày, chẳng thấy quan.
Văn hước ngạo đến như thế, tưởng không còn có thể nào hơn!
Thơ bát cú thời như bài của cựu thần nhà Lê khóc vua Chiêu Thống, khi đem linh cữu về nước, bốn câu giữa:
Bể bắc chín lần rồng lẩn sớm,
Trời Nam một đính hạc về trưa.
Tưởng câu năm nọ như ngày nọ,
Nhớ đến bao giờ khóc bấy giờ.
Thực là ảm đạm trầm thống, văn chương do ở chí tình; khiến cho người sau mấy trăm năm, còn muốn chung một giọt nước mắt.
Văn đoản thiên lục bát thời như bài “Tự thán” của cụ Nguyễn Trãi:
Chiếc thuyền lơ lửng bên sông
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay.
Chắc chi thiên hạ ngày nay.
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao.
Đã buồn về trận mưa rào,
Lại đau về nỗi ào ào gió đông.
Mây trôi nước chảy xuôi dòng,
Chiếc thuyền hờ hững bên sông một mình.
Cái khí ngang tàng lỗi lạc hiện cả ở văn chương, mà như tâm sự anh hùng, khó thể người đời biết đến chỗ đau đớn.
Văn đoản song thất lục bát thời như bài “Chim trong lồng” của Quận Hẻo:
Nhất lung thiên địa tàn thân điểu,
Vạn lý phong vân cử mục tần.
…
…
Nào khi vỗ cánh rỉa lông
Hót cu thiên – túng trong vàng lao lung.
Chim oanh nọ vẫy vùng dậu bắc,
Đàn loan kia túc tắc cành nam.
…
…
Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán.
Phá vòng vây bạn với kim ô.
Giang sơn, khách diệc tri hồ?
Lời văn khảng khái hiên ngang, tự có nam nhi khí phách vậy.
Các văn biền ngẫu thời như bài “Tế Vua Quang Trung”của Ngọc Hân công chúa (1)
Lời nói thực đắc thể, mà nghe ra não nuột can tràng!
Bài “Tần cung nữ oán Bái Công”.
Văn chương rất mực tài hoa, thiên cổ khó còn ai sánh kịp.
Trường thiên lục bát thời như bài hát cổ “ Hà Nội ba mươi sáu phố phường”.
Lăng băng mà rất vui!
Trường thiên song thất lục bát thời như bài “Tự thán” của Công chúa Ngọc Hân.
Lôi thôi mà có cảm.
Phần câu đối thời như mấy chục câu của cụ Tam nguyên Yên Đổ, các câu của cụ Thượng Trứ và còn nhiều của những người khác.
Xem ra đủ vẻ tài tình vậy!
Vì những văn chương của cổ nhân, thiệt có giá trị như thế, mà chữ dùng, cùng là các điển dẫn, đều bởi các sách về Hán văn. Liệu từ đây về sau, nếu không có chú giải mà cứ thế in ra, thời những cái hay kia, khó để mọi ai cùng hiểu. Tôi, địa vị là một kẻ học trò chữ Hán, bổn phận đối với những thứ văn chương ấy, tự mình nguyên chẳng đáng từ nan; huống lại thừa hậu ý của Thư quán chủ nhân ủy thác cho, nên xin hết ngu thành, hiến cungd Độc giả vậy. Lại tiếc vì chỗ ở chân non, ngày tháng tuy như nhàn rỗi, mà sinh nhai quản bút, công việc lại cũng bộn bề. Cho nên trong việc chú giải, có lược, có tường, cũng mong được đồng nhân lượng thứ.
Nay, trước khi đem tập văn này giao trả Chủ nhân hiệu Nam Kỳ, xin kính viết bài tựa, để ghi lại làm duyên.
Sơn Tây, le 22 Janvier 1934
TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HIẾU