You are not connected. Please login or register

100 Truyện hay cực ngắn - nhiều tác giả

2 posters

Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4, 5  Next

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 5 trang]

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

01.
Vườn ngọc lan mùa đông

Tú Anh

Năm cha đi, hình như tôi lên sáu tuổi. Tôi chạy theo níu lấy áo cha mà khóc tức tưởi. Cha khẽ khàng gỡ tay tôi ra, bước đi lầm lũi. Khi ấy, cha còn trẻ lắm. Mẹ cũng còn rất trẻ, cố siết tôi thật chặt trong đôi tay mảnh dẻ của người. Ngày hôm sau, tôi lại vui đùa, chạy nhảy bình thường, chỉ thỉnh thoảng mơ thấy cha, giật mình tỉnh dậy khóc ré lên rồi quên bẵng. Mẹ không khóc nhiều, làm việc liên mien suốt cả ngày, mắt mẹ rộng thênh thang và buồn hun hút.

Cứ mỗi mùa đông, mẹ lại cặm cụi bên các que đan len suốt cả buổi tối. Áo len của tôi nhiều lắm, toàn là những màu sắc sặc sỡ. Mẹ bảo: “Con mặc áo này, trông nhà mình ấm áp hơn”. Ở trường, cô giáo vẫn gọi đùa tôi là Bướm. Tôi về kể, mẹ cười nhẹ nhàng: “Là Nắng, con thích không?” Tôi ngoan ngoãn gật đầu, vùi mặt vào chiếc áo len xanh lơ của mẹ. Từ ngày cha đi, mẹ chưa đan cho mình thêm chiếc áo nào. Tôi mở tủ ra kiếm tìm, những chiếc áo mẹ đan dành cho cha qua các mùa đông vẫn còn mới nguyên và lành lặn vì chưa từng có hơi người. Lâu lâu, mẹ lấy chúng ra, thẫn thờ, mắt mẹ đã kéo dài vệt đuôi dài buồn bã.

Mẹ mang tôi về nhà nội rồi lặng lẽ bỏ đi. Một mùa đông, gió thổi vi vi qua vườn ngọc lan bên hông nhà nghe rờn rợn. Tôi phải ngủ một mình bên một mớ chăn gối ấm áp mà vẫn cảm giác buôn buốt lạnh. Tôi thôi cắt tóc ngắn ôm hai bờ má bầu bĩnh mà để tóc dài ngang vai, thích ngồi một mình ở vườn ngọc lan nhà nội. Cứ mỗi lần chải tóc cho tôi, nội bảo: “Mẹ con đẹp lắm. Người đẹp thường bạc phước”. Tôi soi mặt mình trong chiếc gương con, gắng cười: “Con sẽ là người hạnh phúc. Con không giống mẹ, phải không?” Nội im lặng, nhíu đôi mày bạc, lo âu. Tôi đem ảnh mẹ ra ngắm nhìn, lòng quặn lên vì mình chẳng thừa hưởng một đường nét nào trên gương mặt mẹ.

Hoa ngọc lan trắng ngần và tỏa hương ngan ngát. Bạn bè đến chơi với tôi đông lắm, đơn giản vì mê vườn ngọc lan nhà nội. Tôi chỉ thích một mình ngồi giữa vườn hoa mà tưởng tượng, rồi có khi ngủ quên, dì Lan phải vực vào nhà, xoa dầu khắp người vì sợ tôi cảm lạnh. Tôi nhắm nghiền mắt, tận hưởng cảm giác ấm áp từ đôi bàn tay mềm mại của dì mà nhớ mẹ quay cuồng. Nghe đâu mẹ đã có gia đình, sinh ra một bé gái, mắt tròn và long lanh như có nắng. Tôi khóc khi cứ đến mùa đông mẹ lại gửi áo len về, những áo len màu nền nã và dịu dàng. Người nhắn rằng: “Con gái lớn rồi, phải thế”. Tôi trách âm thầm: “Mẹ đã có nắng rồi, nên đâu cần…”, rồi tự mắng mình ích kỉ, ngồi tẩn mẩn đếm lại những chiếc áo len từ lúc bé thơ, giật mình vì những năm, những tháng đã đi qua nhanh quá.

Cha chẳng thấy về, dường như đã có gia đình mới. Cha không gửi áo len cho tôi mà chỉ gửi những gì bảo đảm cho tôi sống đầy đủ và yên ả. Thi thoảng, tôi thử hình dung xem cha ra sao, nhưng kí ức mờ nhạt quá nên hình ảnh cha chẳng bao giờ hiện lên rõ rệt. Cha có viết thư, hỏi thăm về vườn ngọc lan nhà nội. Nội quét hoa rụng trắng xóa dưới gốc, lại hồi tưởng: “Mẹ con yêu ba con cũng vì vườn ngọc lan này. Hồi ấy, nó vẫn sang đây xin hoa về, chẳng biết để làm gì…Có lẽ là do duyên nợ”. Tôi không ra ngồi hàng giờ ở giữa vườn hoa nữa, nhưng đêm đêm vẫn nghe hương lạc vào tận chỗ nằm. Mùi hương cứ quấn quít một nỗi nhớ nhung da diết. Nơi mẹ sống bây giờ, hẳn không có hoa ngọc lan. Nếu có, mẹ sẽ chẳng bình yên để tạo nên đốm nắng rất xinh của mẹ. Mẹ đang ấm áp, bao giờ cũng ấm áp, cho dù ở giữa mùa đông. Những ngày lạnh, tôi thường ăn rất vội bữa cơm chiều, sợ đối diện với vẻ cô độc già nua của nội, với nét lặng lờ trong dáng ngồi lơ đãng của dì Lan. Tôi mong hơi hướm của một người đàn ông trong gia đình. Tự hỏi sao chừng ấy tuổi, dì Lan vẫn không đi lấy chồng, khi mà hương ngọc lan nhà nội nồng nàn, da diết. Tôi băn khoăn. Nội kể âm thầm: “Dì Lan là người yêu của ba con. Chẳng biêt sao bọn nó…”.Tôi gục mặt vào hai bàn tay, run rẩy. Cha vẫn đi biền biệt. Không về.

Tôi xa căn nhà của nội vào thành phố học, nhắn mẹ thôi đan áo len cho mình. Thế nhưng, cứ đến mùa đông, mẹ vẫn gửi áo về cho cha, và dì Lan lại cẩn thận xếp vào ngăn tủ. Tự hỏi, có bao giờ cha quay về, đếm đủ tình yêu của những người ở lại dành cho cha không?

Cứ đến mùa đông, tôi lại trở về nhà nội, chỉ mong mang về một đốm nắng cho nhà ấm lên một chút, nhưng chẳng thể xua đi mùi ngọc lan lan tỏa bồn chồn…

**********

nguồn ETV

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

02.
Hoa muộn
Phan Thị Vàng Anh

I
Những vườn xung quanh, mai đã bắt đầu trụi lá. Ngày nào, chú Tảo cũng cái quần soọc đen lưng lửng, áo may ô thủng lỗ chỗ, đầu đội cái nón kết đỏ, len lỏi giữa những hàng cây, hỏi sang: “Bên ấy chưa nhặt lá (*) à?”. Chưa ai nhặt lá mai cả. Trong vườn, mai vẫn rậm rịt, không ai rảnh mà làm việc ấy, gần cuối năm, bà cụ lại được mời đi tỉnh chơi, những ngừơi trẻ còn lại trong nhà đùn đẩy nhau, ai cũng ngại, ai cũng cố cho rằng người ta chỉ bày vẽ, chứ cứ thử không nhặt xem, nó có nở không? Nở quá đi chứ!

Rồi một người nhớ ra, bảo: “Ờ năm nay không có chú nhỏ nào đến nhặt lá giùm nhỉ?”. Ở nhà, không cần qui ước, cứ ai lân la tán tỉnh Hạc đều được gọi “chú nhỏ”, có chú đến rồi đi luôn, có chú lai rai lâu lâu đảo qua một lần rồi biến mất, mỗi chú để lại một vài kỉ niệm trong nhà, trong vườn, trong cái trại gà lợp lá dừa mục nát. Đó là những cái ghế con đóng vuông vức đầy đinh; những cây cảnh bị bẻ quặt, uốn cong, cố vặn vẹo theo hình con lân, con phụng; là hệ thống máng ăn cho gà, dùng không biết đến khi nào mới hỏng…Mọi người vẫn đùa hỏi: “Hạc! Mày có nhớ thằng nào làm việc gì không?”. Hạc vêu mặt cười: “Nhớ chứ, tôi có ghi sổ hết mà!”. Mọi người đe: “Cẩn thận! Một trong những thằng ấy mà vớ được cuốn sổ thì mày khốn!”.

…Ờ đúng rồi, mấy năm nay đã chẳng có ai đến nhặt lá mai cho Hạc. Tuyến lấy vợ. Nhật xuất cảnh, Chức cách đây mấy hôm thấy chạy vèo vèo ngoài ngã ba, chở một đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay là bồ bịch. Đó là những “chú nhỏ” năm xưa, tay lăm lăm kéo, đứng chông chênh trên cái ghế gỗ, hay khom lưng giữa những tàn mai già, nhặt lá. Lá mai xạm màu, rơi đầy gốc, họ lại nghĩ ra việc quét vườn. Hạc lúc tựa gốc mít, lúc đi quanh “chú nhỏ”, nói chuyện “ngụ ngôn”, đôi khi buồn cười, thấy hình như đã nói những câu như thế này, cũng trong tiếng chổi lạt xạt quét vườn, vào năm ngoái, với người năm ngoái. Rồi về, nấn ná ở cổng, hẹn Tết nhớ đến coi mai nở, à trước Tết chứ, đến để còn chở đi chợ. Năm nào Hạc cũng phải giảng giải việc đi chợ Tết cho một người nào đấy, anh chị trong nhà lại cười: “Người vô duyên, không giữ được ai quá một năm!”.

II
Rốt cuộc, cả đám người trẻ tuổi trong nhà vừa quyết định, vừa cười láu cá: “Khỏi, thử một năm không nhặt lá, biết đâu hoa ra lác đác lại chẳng đẹp hơn?”. Họ vùi đầu vào mua sắm, may cho nhanh mấy bộ quần áo Tết. Hai mươi tám Tết bà cụ mới về, đứng lọt thỏm giữa những bị cói, giỏ cước, trẻ con trong nhà ùa ra, miệng hét, tay xách, người lớn cũng ùa ra, cười: “Tết về rồi!”. Bà cụ nhìn khoảng vườn còn rậm rịt lá mai, lắc đầu: “Chúng mày đáng sợ thật!”. Cả lũ lại cười.

Mùng một, mùng hai Tết, không có mai, Hạc thấy Tết chỉ giống như một ngày chủ nhật, như ai nhà giàu có làm đám cưới đốt pháo thật nhiều. Một người nói: “Mày đừng có đổ thừa! Cái hoa mai quê mùa ấy có việc gì làm mày mất Tết”, rồi ngậm miệng lại ngay, nhìn Hạc như muốn nói: “Chẳng qua năm nay không có thằng nào đến nữa mà thôi!”. Hạc cũng chỉ cười, vào nhà trong nằm, lôi mấy tờ báo Xuân ra xem mà thấy buồn rũ rượi. “Năm nay mình đã bao nhiêu tuổi? Vì sao những ngày lễ Tết mình luôn phải nằm nhà?”.

Một đứa cháu trèo lên giường, moi móc từ trong túi được một đống hạt dưa và một nắm phong bao ra đếm lại. Hạc cười: “Dì thấy con đếm phải đến chục lần chứ không ít!”. Cô nghĩ: “Ngày xưa mình cũng như thế này” rồi lơ mơ ngủ mất.

III

Mọi người kêu lên ngán ngẩm: “Hết Tết!”. Rồi vặn lại đồng hồ báo thức, dậy sớm đi làm trở lại. Bây giờ bà cụ mới đi nhặt lá mai được, lụi cụi từ gốc này sang gốc khác, thỉnh thoảng pháo sót lẹt đẹt đâu đó trong xóm nhỏ. Hạc đi quanh mẹ: “Chi vậy?”. Bà cụ móm mém cười: “Tội nghiệp, nhặt để nó nở!”.

Mai nở. Một chiều kia như đã hẹn, một cô bạn dẫn ông anh họ đến nhà Hạc, gửi anh ta lại bảo: “Ra chợ một chút” rồi phóng xe đi mất lại bỏ nhỏ: “Ổng đàng hoàng lắm đó!”. Anh ta lù khù, tay khư khư cái mũ vàng như củ nghệ, chậm chạp, mãi mới cởi được xăng-đan để vào nhà. Hạc cau mày: “Khi mình còn trẻ, cỡ này đừng hòng bò đến gần!”. Rồi đau đớn nghĩ: “Sao mình cay đắng thế này!”.

…Họ ngồi một lúc lâu, có tám trang báo giở qua giở lại, chẳng đọc được tin gì. Cũng không biết nói chuyện gì. Hạc rủ: “Ra vườn xem mai chơi!”. Họ đi qua những góc vườn, nơi khoảng một chục cây mai bung ra đặc kịt những hoa vàng nở muộn. Hạc nghĩ: “Có mai rồi đấy, mà vẫn không thành Tết!”. Hai người khoanh tay bước, chỉ có tiếng lá mai lạt xạt dưới chân, họ vẫn không biết nói gì, nghiêm trang như giám khảo hội hoa Xuân… Và nắng chiều tắt dần, như một dải voan cũ vắt trên ngọn cây, nhợt nhạt…

..............................................
(*) Nhặt lá: chỉ công việc ngắt bớt lá trên mai để hoa mai nở đúng dịp Tết.
**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

03.
Chị em họ
Phan Thị Vàng Anh

1
Cả họ xem Hà như một tấm gương sáng. Hà sạch sẽ, vô cùng lễ phép, năm nào cũng đi thi học sinh giỏi văn. Thùy – một chị họ của Hà – nhận xét: “Thi giỏi văn, có gì là hay?”. Dù thế, ba mẹ Thùy vẫn quyết định đổi trường cho nó. Thùy mắt ngấn nước, cãi: “Con không thích học chung với họ hàng! Con học ở đây quen rồi, ở đây có bạn nhiều!”. Hai người lớn nghiêm nghị bảo: “Ở đâu cũng sẽ có bạn thôi” và mọi chuyện coi như được khóa lại.

2
Trong nhà, Thùy không có bạn, nói đúng ra, không ai rảnh mà làm bạn với Thùy. Chỉ có ngoại thương, nhưng ngoại lại ở xa. Ngoại nói: “Nó như con bụi đời con!”. Ngày đầu từ trường mới về, Thùy đạp xe ngay đến nhà ngoại. Trên đường đất, mưa tuôn nhẹ nhàng, đều đều, tưởng như không bao giờ tạnh nổi. Thùy nằm dài trên phản gỗ, bảo: “Con Hà chán lắm ngoại ơi!”. Ngoại cười: “Đúng rồi!...Nó ngoan nhưng cứ rù rì, buồn lắm…Thế hai chị em có đi với nhau không?”.

Thùy cau có, dài giọng: “Không!...Ra chơi, nó đứng tựa lan can vài giây rồi vào lớp ngồi tiếp. Con hỏi: “Đi chơi không?”. Nó bảo ở dưới sân đông, mệt lắm. Thế là con phải ngồi lại vì con có quen ai đâu!”. Thùy nhìn mưa len lỏi qua những tàn dừa, buồn rầu. Nó nhớ lớp xưa, trường xưa, nhớ đám bạn lắm mồm, nói suốt năm tiết vẫn không hết chuyện. Ngoại bảo: “Con mệt thì ngủ đi!” rồi an ủi: “Không sao đâu, con Hà hiền, ngoan lắm!”. Thùy mơ màng ngủ, nó mơ thấy mình hỏi Hà sỗ sàng: “Có bệnh gì không mà sống lờ đờ như người ốm vậy?”. Hà trả lời ngây ngô: “Không bệnh, nhưng sợ đông người!”. Trong mơ cũng có mưa, và gió ẩm ướt thổi quanh, mát rượi.

3
Mẹ hỏi: “Sao không rủ em Hà đi học cho vui?”. Thùy dắt xe lách qua cửa hẹp vanh, trả lời vội vàng: “Thôi, nó đi chậm như rùa, con lại thích đi học sớm!”. Nó tự nhủ: “Dở quá, từ đầu năm tới giờ, chưa khi nào mình là người đầu tiên vào trường cả!”. Luôn luôn có những kẻ đến sớm hơn Thùy, hoặc là một cái xe dựng cô độc trong bãi còn vắng tanh, hoặc một anh chàng đứng tựa lan can lớp học nhìn như quét khắp sân trường rộng lớn. Thùy tự an ủi: “Chắc chúng nó gần nhà!” rồi ung dung vào lớp. Trên bảng đen, bài giảng lớp học chiều qua xen lẫn những câu viết đùa chữ to, chằng chịt. Thùy cất cặp rồi một mình giở ghế lên sẵn cho tổ trực, nó nghĩ: “Mình thật khỏe, mình phải làm thật nhanh trước khi có người khác giúp!”. Xong việc, cũng là lúc tổ trực vác chổi vào, cả bọn xuc động, hỏi: “Thùy làm đấy à?”. Hầu như ngày nào cũng thế mà vẫn không hết bất ngờ, chỉ có Hà ái ngại nhìn Thùy, nó nói nhỏ: “Chị làm thế làm gì, việc tụi nó mà!”. Thùy vẫn đáp cụt lủn: “Rảnh thì làm!”, nó muốn nói thêm: “Tao cũng không thích mày, mày trốn quét lớp luôn!”, rồi lại thôi, nghĩ làm thế người ta sẽ cười hai chị em, đành lặng lẽ đi chơi chỗ khác.

4
Giỗ ông, tất cả đổ về vườn của bà. Thùy ngủ lại trước đó một đêm, giết gà, làm vịt. Xong việc, nó lấy xe chạy loăng quăng. Trên những con đường quê sau mưa thơm nồng hoa đêm, vài đứa trẻ con đi dạo dạo, dựa nhau hát vọng cổ ngân nga. Thùy nghĩ: “Tụi này vui thật!”. Buổi sáng, các dì, cậu khen: “Thùy thật là chăm!”. Mẹ bảo: “Ui! Lười học lắm!”. Thùy ngồi rửa rau, kêu to uất ức: “Con lười học hồi nào?”. Mẹ nghiêm mặt, ‎ bảo: “Hỗn! Không được cãi người lớn!” Thùy im bặt. Nó nghe tiếng Hà nhỏ nhẹ: “Con chào ngoại, con mới tới! Con chào…Em chào…”. Mọi người lại khen với nhau: “Nguời lớn ghê!”. Hà đứng xa xa, hỏi: “Chị Thùy có cần gì không, em phụ?”. Thùy bảo: “Không! Xong hết rồi!”. Hà đi lên nhà trên, các chú dì lại khen Hà giỏi, nghe đâu mới thi gì đó cho trường. Thùy đổ chậu nước, nó nghĩ: “Không ai biết nó rõ bằng mình. Nếu mình kể ra nó ích kỷ, nó không có bạn chơi, mọi người sẽ nói là mình ganh nó giỏi!”. Rồi Thùy buồn bã nghĩ, mà sao mình không giỏi nhỉ? Hồi bé các thầy vẫn khen mà? Hay là tại lớn mình ham chơi? Nãy mẹ nói mình lười chắc cũng đúng…Nước trào ra khỏi chậu ngoại giục: “Rửa kìa Thùy! Con nghĩ gì vậy?” - “Con không nghĩ gì cả!”. Rồi thả vào chậu nước đầy những nắm rau xanh ngắt.

5
Như cả họ đã dự đoán, cuối cùng Hà cũng lên truyền hình. Cả nhà chăm chú ngồi xem cảnh Hà ngồi học bài đêm khuya, bên cái đèn con mới tinh. Hà cầm chổi dịu dàng quét lớp…Đến cảnh Hà giúp mẹ làm cơm, rửa chén…Thùy muốn kêu lên: “Ơ, mọi ngày dì Tư có để nó làm gì đâu!”, nhưng kìm nén được, sợ mọi người lại bảo mình ganh. Nó chỉ hét lên bực mình khi thấy nhỏ Sương đứng cười bẽn lẽn bên Hà, kiểu bạn thân, cùng tiến: “Con này vẫn hay nói xấu con Hà, thế mà cũng vác mặt lên đây được!”. Mẹ bảo: “Còn hơn mày không bao giờ được lên đâu!”.

Thùy nghĩ, có cho lên, khéo mình cũng xin thôi. Nếu chị phóng viên hỏi: “Hằng ngày em làm gì?” Chẳng lẽ lại tả, em hùng hục đi học sớm để bưng ghế, kéo bàn, em hay đạp xem chạy loăng quăng ngoài đường. Rồi còn bạn thân, biết chọn đứa nào, bỏ đứa nào, cả một lũ lau nhau, ai mà cho lên ti-vi hết được, rồi khéo lại giận nhau, lại bảo: “Mày quên tao” mà từ xưa tới nay có khi nào Thùy quên ai được!

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

04.
Sao sáng lấp lánh
Nguyễn Thị Ấm

Đó là năm 1972.

Tiểu đội trinh sát của chúng tôi được bổ xung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn 18 tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu... Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới của mình ra cho đồng đội xem. Đến lượt Minh, cậu ta cầm tấm ảnh trên tay bỗng cười cười cất tiếng:

- Vợ chưa cưới của tiểu đội trưởng rất đẹp... nhưng chưa đẹp bằng người yêu của em.

Cả tiểu đội nhao nhao:

- Ảnh đâu!... Đưa ra đây xem sao?Minh gãi đầu buồn bã:

- Các vị quên à?...Trước khi đi B, cấp trên chẳng thu hết các giấy tờ, các tấm ảnh của người thân rồi còn gì.

- Sao mày không cố giấu lấy tấm hình của người yêu?

- Ngày đó không biết, nghe lời cấp trên mới ngốc chứ!

- Người yêu làm nghề gì?

- Học sinh trường múa Việt Nam.

- Trời!

Tất cả trầm trồ xuýt xoa. Bởi chắc chắn rằng học sinh trường múa phải đẹp hớp hồn. Có tiếng nói lại vang lên:

- Tên là gì?

- Tên là Hạnh.

- Làm quen ... và yêu như thế nào, kể cho bọn tao nghe đi.

Minh lại cười cười:

- Ờ thì k. Nhưng cấm mọi người được cười đấy.

Rồi cậu ta nhìn vào ngọn lửa bập bung cất tiếng : “Hồi còn đóng quân ở gần Hà Nội, có một hôm tớ được tranh thủ về thằm nhà. Bước chân lên chuyến xe buýt Cầu Giấy – Bờ Hồ, tớ vô tình đứng sau một cô gái mặc áo hoa. Tớ tò mò muốn xem cô gái có đẹp không, nên tớ cố len lên. Chưa kịp nhìn đã va phải cô ấy. Cô gái lườm rồi đứng tránh ra. Tớ ngượng quá, ấp úng:

- Xin lỗi! …Tôi không có tiền mua vé. Bạn có thể mua giùm tôi được không?

Cô gái nhìn nghi ngờ. Anh bán vé xe tiến lại. Cô liền mua hai chiếc vé. Rồi đưa cho tớ một chiếc nhưng không nói một lời. Tớ vẫn đứng như trời trồng, thỉnh thoảng lại nhìn trộm…Một cô gái mắt to và sáng lấp lánh như sao. Xe đỗ cạnh Bờ Hồ. Cô gái bước xuống. Không hiểu sao tớ cũng bị bước theo như sắt gặp nam châm. Tớ đi sau cô khoảng 10 bước chân. Cô gái rẽ trái, tớ cũng rẽ trái. Cô rẽ phải, cũng rẽ phải. Bỗng cô gái quay lại, cất tiếng:

- Anh bộ đội…Tại sao anh lại đi theo em?

Tôi cười, gãi đầu, ấp úng:

- Tôi…tôi…muốn biết nhà…để trả tiền.

Cô gái cười giòn:

- Không…không phải trả tiền đâu.

Rồi cô chạy vụt vào sau một cái cổng sắt. Mặt tớ đỏ bừng, tó bước đi như người say rượu.

Chiều hôm sau, tớ quay lại để trả tiền vé xe buýt. Gặp cô gái tớ liều lĩnh mời cô đi xem phim. Cô đã nhận lời…và chúng tớ yêu nhau…”.

Đêm đó, khi cơn mưa rừng vừa tạnh, những người lính chúng tôi cứ nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời…mà không ngủ được.

Sáu tháng sau, một đêm tháng mười tôi và Minh được phái đi trinh sát ở cảng Cửa Việt. Sau ba tiếng đồng hồ tiếp cận mục tiêu, hai đứa rút ra ngoài. Ba giờ sáng, chúng tôi cố gắng bang ngang qua những đồi cát trắng mênh mông để trở về cứ. Bỗng một loạt pháo dàn từ biển bắn vào. Tôi bò xoài lăn mình trên cát để tránh. Sau loạt đạn, tôi chồm dậy cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Tôi vùng dậy chạy ngay đến chỗ Minh. Cậu ta nằm úp sấp. Một mảnh pháo đã cắm vào ổ bụng. Máu trào qua lớp áo. Tôi băng bó rồi cố cõng Minh đi thật nhanh. Máu từ vết thương trào ra thấm ướt lưng tôi rồi nhễu xuống cát trắng. Bỗng Minh tỉnh lại thều thào:

- Anh!…Để em xuống đi…Em không sống được nữa đâu.

Tôi khẽ đặt Minh nằm xuống đồi cát. Minh nhìn tôi, giọng đứt đoạn:

- Anh chôn em tại đây…Cố về đơn vị nhanh kẻo trời sáng.

Gió biển thổi vù vù. Người Minh lạnh toát. Tôi nắm lấy tay Minh cuống cuồng:

- Thế!…Thế! Em có nhắn gì cho Hạnh.

Minh cố cười:

- Chuyện…chuyện đó em tưởng tượng đấy! Em chưa được cô gái nào yêu cả. Cũng tại em mồ côi cha mẹ nên không còn người thân nào hết…

Nước mắt tôi trào ra. Bỗng Minh lại lên tiếng:

- Em có một lá thư…Ở trong túi áo ngực. Bao giờ hòa bình, anh đem bỏ vào thùng thư hộ em…

Một cơn gió thổi đến. Người đồng đội của tôi theo gió ra đi. Tôi sờ túi áo ngực của Minh, thấy một mảnh giấy gấp làm tư. Tôi vội bấm đèn pin để đọc. Trong tờ giấy chỉ có mỗi một dòng chữ lieu xiêu: “Hạnh ơi!…Anh cô đơn lắm…”. Và kí tên.

Ngày 30 tháng 4 năm 1075, tôi theo đòan quân ào ạt tiến về giải phóng Sài Gòn. Năm giờ chiều, thành phố tràn ngập cờ hoa. Tôi thẫn thờ ra chợ mua một cái phong bì. Rồi bỏ lá thư bị vương máu vào trong. Bên ngoài bì thơ tôi viết: Gởi Hạnh – Học sinh trường múa Việt Nam – Khu Cầu Giấy, Hà Nội.

Những người lính trong tiểu đội của tôi tin rằng…Lá thư đó đã đến tay cô gái có đôi mắt như vì sao sáng lấp lánh.

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

05.
Hoa Đại trắng
Đức Ban

Trong số lịch tôi treo trên tường, có một tờ in ảnh một bông hoa đại, ai đó tặng tôi bằng cách bỏ qua cửa sổ vào chiều tất niên. Bông đại trắng lạnh giữa nền xanh mỏng như sương khói, dính vào cành gầy tựa nét bút lông của một nhà nho già yếu.
 
Suốt mấy ngày Tết, tôi ngắm bông đại trắng dường như có một thôi thúc nào đấy trong cõi tâm linh.
 
Vợ tôi thì không riêng gì hoa đại, các tờ lịch khác trên tường đều nằm ngoài tầm mắt nàng; như trong cuộc đời này, chỉ có tôi nằm trong mắt nàng vậy.

Một hôm, vào lúc nửa đêm về sáng, bỗng nhiên tôi choàng tỉnh, tâm thần hoảng loạn. Tôi bật công tắc điện. Căn phòng trong bóng đêm trở nên lạnh lẽo, chập chờn thứ ánh sáng vàng có cái gì đó u uẩn, kỳ bí.
 
Tôi nhìn tờ lịch trên tường và giật mình: bông đại trắng đã biến đâu mất; giữa mảng màu xanh lam chỉ còn hình hài của nó đen mờ, hư ảo.
 
- Lạ lùng! – Tôi kêu lên và lay vai vợ.
 
Nàng cuộn tròn trong chăn như một con mèo lười.
 
- Đời này chuyện gì chẳng là chuyện lạ - Nàng nói, giọng tỉnh khô như từ thủa lọt lòng đến giờ nàng chưa hề ngủ.
 
Tôi nhìn đôi mắt không mở của nàng, nói:
 
- Mất bông hoa đại trên tờ lịch rồi!
 
Vợ tôi dửng dưng:
 
- Một bông hoa thì có sao! Ngủ đi anh!
 
Nói xong, vợ tôi xoay lưng về phía tôi, kéo chăn trùm kín đầu.  
Tôi đứng giữa phòng. Và bỗng có những làn gió nóng như lửa quét qua đầu tôi.
Mắt hoa lên, tôi khuỵu xuống nền nhà ướt lạnh.
 
*
- Chuyện thế, thưa bác sĩ.

Ông bác sĩ có khuôn mặt hồn hậu nhìn xoáy vào tôi, hỏi:
 
- Anh cưới vợ từ bao giờ?
 
- Tôi sang nhờ ông khám bệnh, ông lại đi hỏi chuyện riêng tư.
 
- Mọi thứ trên cõi đời này đều dính dáng vào nhau, mắc vào nhau như cái mạng nhện. Không có chuyện gì là của riêng ai đâu.

Tôi bất giác rùng mình. Và tôi kể:
 
- Tôi gặp nàng vào đêm rét se sắt trong cuộc thi người đẹp thị xã. Tôi là phóng viên tờ báo tỉnh, đến đó để chụp hình. Nàng có một cơ thể đẹp tuyệt trần. Ba số đo lí tưởng, ngực, eo và mông 85-60-88 trong chiều cao một mét bảy. Mọi cái trên con người nàng đều quyến rũ ghê gớm, kể từ sợi lông măng. Vậy rồi tôi bỏ vợ tôi – một cô giáo dạy trẻ con ở quê – đi theo nàng…

- Anh đơm đặt vợ ngoại tình làm cớ li dị phải không? – Bác sĩ ngắt lời tôi.
 
Tôi ấp úng. Rồi nói tiếp:
 
- Bữa tôi cưới nàng, vợ tôi đến, dù là tôi không mời. Cô mặc một bộ quần áo trắng, đội mũ trắng, đi giày trắng. Cô tựa một khối tuyết trắng lạnh và buồn. Cái hộp cô tặng tôi cũng trắng nốt.
 
- Có cái gì trong hộp? – Bác sĩ hỏi, đầy vẻ nôn nóng.
 
- Tôi chưa mở.
 
Bác sĩ lắc đầu, nói:

- Thôi, anh về uống bốn liều thuốc an thần rồi xem trong hộp cô ấy có gì.
 
*
Vợ tôi ngủ, thỉnh thoảng lại rùng mình, chắc nàng đang mộng mị.
 
Tôi lóng ngóng mở cái hộp làm bằng bìa cứng.
 
Trước mắt tôi là một bông hoa đại bằng vải giống y như thật bởi lớp da trắng, mịn màng và đường răng cưa viền nơi đài hoa. Như một cái máy, tôi bỏ cái hộp vào túi áo ngực, dắt xe đạp ra khỏi nhà. Tôi đi như kẻ mộng du trong đêm sương mù đùng đục.
 
Tôi đến nhà người vợ cũ lúc tưng tưng sáng. Một ngôi nhà nhỏ nhắn nằm ngoài rìa thị xã. Mẹ cô móm mém cho tôi biết sau khi tôi cưới vợ mới, cô bỏ bà, bỏ lũ trẻ con, đến nương nhờ cửa Phật. Hiện cô ở chùa Tích Phương.
 
Mặt trời mọc, tôi lần đến được chùa.
 
Hoa đại trắng trời, trắng đất chùa.
 
Một nhà sư gom hoa đại rụng giữa mảnh sân thanh tịnh cho tôi hay rằng cô vừa lên Niết Bàn lúc nửa đêm về sáng.
 
Tôi run rẩy đặt cái hộp đựng bông hoa đại trắng lên bàn thờ. Quay ra, tôi ngửa nhìn lên chín tầng mây cao mịt mờ.
 
Chính ngọ, tôi về đến nhà.
 
Tờ lịch in ảnh bông đại trắng vẫn vẹn nguyên trên tường.
**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

06.
Đàn ông, đàn bà và ruồi
Đức Ban

Vào buổi trưa một ngày mùa hè, có hai người đàn ông đi trên đường phố chói chang nắng. Không ai biết tên tuổi, quê quán họ. Người viết truyện này cũng không biết; xin tạm gọi là người đội mũ và người đầu trần.

Cả hai quặt lên vỉa hè, bước vào cái quán nhỏ dưới gốc bàng. Trong quán không khí lờ mờ, dịu mát, thoang thoảng mùi hương nhu. Chủ quán là một người đàn bà mảnh mai, mặc áo lụa vàng mỏng, mái tóc mềm như nước. Nàng có đôi mắt đen lắm, đến kẻ khó tính nhất nhân loại cũng không thể chê nổi. Đẹp và thấm đẫm một nỗi buồn thuần khiết.

-Chào chị - Hai chàng trai nói, âm thanh cài vào nhau và cùng run run.

Người đàn bà nhướn nhẹ mày, gật đầu đầy vẻ bao dung và có chút quyền ‎quý.
Hai chàng trai ngồi xuống cái bàn sát cửa ra vào.
Người đầu trần duỗi tay trên thành ghế.
Người đội mũ khoanh tay trước ngực.

Một lũ ruồi vo ve quanh họ rồi đáp xuống bãi nước hình quả tim đọng trên mặt bàn. Rất nhiều cái chân của chúng nhúng vào thứ nước mang màu gỗ. Rồi chúng xòe cánh bay vù lên, rắc vào khoảng không, rắc lên quần hai người đàn ông những chấm nước li ti như mũi kim.

- Có mùi mật – Chàng trai đội mũ khịt mũi, nói:

- Có mùi hương gì đấy! – Chàng trai đầu trần trầm ngâm.

Một khoảng lặng im thăm thẳm.

Chàng trai đội mũ rũ tay áo, cựa quậy. Rồi kêu

- Ruồi! Ruồi!

Người đàn bà cười.

Chàng trai đầu trần uôm cả người lên bàn. Chàng nghĩ, nghĩ đến tiếng cười của người đàn bà trong truyện thần tiên chẳng nghe bằng trí tưởng tượng năm mười bảy tuổi…Một hiệp sĩ giang hồ đuổi theo tiếng cười ấy từ lúc anh còn trai trẻ đến lúc tóc bạc phơ và chết vào một buổi chiều có hoàng hôn biển. Tiếng cười của người đàn bà từng lớp, từng lớp như vải khâm liệm anh.

Chàng trai đội mũ bỗng rùng mình. Khuôn mặt chàng hiện lên những đường nhăn. Hai con ruồi hồn nhiên bò trên những ngón tay đeo nhẫn của chàng. Chàng đứng dậy, giẫm chân, bước ra khỏi quán.

- Không chịu được! – Chàng cáu kỉnh; không biết với ruồi hay với cái gì.

- Cứ như trong truyện cổ tích – Chàng trai đầu trần vẫn trầm ngâm. Dáng vẻ chàng hệt một kẻ mộng du. Mắt chàng đẫm lệ. Nước mắt chàng chảy thành dòng xuống đôi má đang hồng dần lên. Thứ nước mắt kỳ lạ đến nỗi lũ ruồi bay dạt ra.

Người đàn bà nhìn vào mênh mông, lắp bắp đôi môi mòng mọng đỏ như cánh sen, rồi đột ngột hỏi chàng trai lúc ấy đã đứng trước nàng, cách nàng trọn vẹn một gang tay. Hỏi rằng:

- Anh có thích bức tranh Quy Pi Đông và Si Xê (*) không?

Chàng trai đầu trần ngửa mặt nhìn trời qua cái lỗ thủng trên mái tranh. Chàng chuẩn bị cho một chuyến bay vào mây vào nắng…

Nghe kể, về sau họ thành vợ chồng.

Còn chàng trai đội mũ trở thành người nuôi chim cờn (**) cực giỏi.
_________________

(*) Tranh Raphaen
(**) Chim cờn: Giống chim sống ven biển miền Trung, chỉ ăn mỗi loài ruồi.
**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

07.
Sông Lấp
Nguyễn Bản

Mão rẽ vào thăm con. Bé Lưu cũng ngả vào lòng bố. Nhưng nó vẫn gọi bằng chú, thói quen từ khi biết nói, mặc dù tôi vẫn mắng nó, hôm nay vẫn mắng:

- Bố đẻ của con, con phải gọi bằng bố!

Con bé òa khóc, vùng chạy úp mặt vào cánh cửa. Tôi nao lòng.

Nghe anh nói, tôi càng nao lòng. Người tôi nổi gai. Tôi cũng vẫn thế, không đổi được ư? Mối tình đầu tôi đã liệm và mai táng nó. Tôi đã đoạn tang. Cũng đã hết cả lòng căm giận. Có thật tôi đã nguội lạnh rồi không?

- Anh dỗ nó đi, em đi giặt.

Thực ra tôi chạy trốn. Tôi chỉ kìm nổi nước mắt khi ra tới bờ sông.

Con sông trôi bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, cũng là con sông mấy lần tôi định đâm đầu xuống, sau những lần nghỉ phép, vay phép, lếch thếch bế con xuống Hải Phòng, rồi lại lếch thếch bế con về, mỗi lần một cay đắng hơn.

Tôi vẫn nghĩ lái xe mấy ai không bồ bịch, nhưng rồi sẽ chán, vì chẳng có ai có thể yêu Mão bằng mình. Năm năm chờ đợi, lúc Mão còn tại ngũ ở Tây Nam, đi làm, dành được đồng nào, lại vào thăm cho đỡ nhớ nhung. Bố tôi chửi bảo Mão mắt trắng, môi thâm, không tin được. Tôi lại thấy mắt đen, môi đỏ.

- Con chỉ cần sống với anh ấy một ngày, cũng sướng một đời.

Ô hay, cầu một ngày, được những hai năm, cho tới khi bé Lựu bập bẹ, còn khóc nỗi gì.

Đoan lau nước mắt cho tôi. Đoan cũng lính biên giới, nhưng phía Bắc về, thợ điện cơ quan. Được, đã thế, đây cũng bồ bịch. Tôi nghĩ vậy, bất cần đời, đơn giản, vì Đoan trai tân, kém tôi hai tuổi, thiếu gì gái mười chín, đôi mươi. Trước đó, vẫn mày tao, “Đoan, chữa cho tao cái cầu dao”. “Ăn kem, chị cho một cái”. “Xì, chị tao á?”…và Đoan cười, hàm răng đều nhỏ, có lẽ đến già trông vẫn trẻ con. Ngờ đâu, Đoan yêu tôi thật, yêu bằng ánh mắt và tình yêu bé Lưu. Con bé suốt ngày quấn lấy Đoan. Dư luận ầm ĩ, trai tơ, gái nạ dòng, chồng bỏ rơi. Ông phó giám đốc, chú ruột Đoan, lộn ruột, tát vào mặt cháu ngay tại phòng tôi. Bé Lưu ôm chân Đoan nức nở.

Tôi càng rối bời, khi mẹ chồng lên khuyên tôi nghỉ không lương mấy tháng, xuống Hải Phòng dọn hàng giải khát, nhà bà mặt đường, bên sông Lấp, gần nhau, mọi chuyện sẽ êm dần.

Nhưng hai tháng sau, sáu mươi đêm, đêm nào cũng giống đêm nào, một hai giờ sáng. Mão mới về, hơi bia nồng nặc, dội nước ùm ùm, rồi vào nằm cạnh tôi, như con trâu mộng bên cái xác ve, quay mặt, ngáy liền một mạch tới sáng.

Ôi giá một đêm, Mão thức giấc, nắm bàn tay tôi (bàn tay thôi), tôi sẽ òa khóc:

- Tắm nữa đi, tắm bằng nước mắt của em cho tỉnh lại, cái đồ lú lẫn, cái đồ phụ bạc mắt trắng môi thâm.

Mão nói toẹt ra đã yêu người khác:

- Sự thể đã như thế, ở được với nhau thì ở.

- Em không thể ở như thế được.

- Vậy làm đơn đi, anh k‎ý.

Đơn viết bằng nước mắt, nước mắt nuốt vào, quánh đen thành mực, cần gì Mão ký.

Đoan không giận tôi:

-Thôi cứ thế cho hết nhẽ, có điều mấy tháng anh nhớ cón bé quá.

Đơn mình tôi k‎ý, trở thành bên nguyên.

Hai năm bướm hoa đã chán. Mão đến chỗ tôi nhiều lần, tha thiết chuộc lại lỗi lầm.

- Nhưng thiếu bố Đoan, con bé buồn chết mất!

- Con anh, chỉ anh mới là bố nó.

- Vậy anh thử xem, em sợ nay mới là bố thì hơi muộn.

Và chiều nay, Mão thử. Bé Lưu khóc. Mão rầu rĩ:

- Thôi cứ đế nó gọi anh bằng chú, còn hơn phải gọi bằng bố mà quay mặt đi sụt sùi thế kia.

Tôi lại rơi nước mắt ở bờ sông.

Tối, nằm bên Đoan, tôi hỏi:

- Sông có linh hồn không anh?

- Có chứ.

- Khi nó bị lấp, hồn nó còn không?

Trời ơi, sao mãi tôi vẫn chưa yêu Đoan bằng trước đây yêu Mão, mặc dầu tôi đã cố rất nhiều.

- Đừng giận em, nhé. Có phải em không muốn yêu anh gấp mấy thế đâu.

Tôi đã cung Đoan bơi trên dòng sông khác.

Thế mà chiều nay nước mắt vẫn rơi. Có phải những giọt nước mắt cuối cùng của con sông xưa đã thành sông Lấp hay không?

Hồn mày đấy ư, sông Lấp?
**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

08.
Bông hồng lẻ loi
Phùng Cao Bảng

Chị bần thần ngắm bông hồng ủ rũ, mệt lả đi trong bàn tay mềm mại của mình. Rồi, với một niềm nuối tiếc vu vơ, chị ném chúng vào sọt rác nơi góc hè, để thay vào đó vài bông hồng tươi tắn nhất mà chị vừa chọn ra từ mấy bó hoa còn xếp đầy một góc bàn.

Căn phòng rực rỡ hẳn lên. Trong ánh mắt chị, chứa chan niềm thích thú, khác hẳn với tâm trạng đối nghịch mới đó còn vướng vất trong lồng ngực và tan biến theo một hơi thở dài thật khẽ khàng.

Theo thói quen cố hữu, chị ngoái nhìn vào góc chiếc sa-lon, nơi anh thường ngồi, dường như để tìm kiếm mối đồng cảm trong sự im lặng đầy ấn tượng. Chị ngã đầu vào ngực anh, chờ đợi bàn tay ve vuốt, nghe hơi thở nồng nàn của anh. Cả hai cùng nhìn ngắm mấy bó hoa tươi rói xếp đầy góc bàn và liên tưởng đến đêm biếu diễn thành công trở về.

Khi tấm màn nhung vừa khép lại, anh chị quên hết mệt nhọc, quên cả những giọt mồ hôi chảy dài hai bên má và đưa tay đón nhận những bó hoa hồng mà số khán giả ái mộ dành cho mình.

Nhờ tài nghệ bẩm sinh, niềm say mê nghề nghiệp và những kiến thức đã học được nhiều năm ở một trường múa nước ngoài, anh chị đã sớm khẳng định được mình và gặt hái được nhiều thành công chẳng mấy ai bì kịp.

Anh chị luôn múa song đôi bên nhau như một cặp uyên ương không thể rời nhau và cũng không ai có thể thay thế được mỗi khi vắng một trong hai người.

Thời gian cứ thế cuốn hút trong ánh đèn sân khấu rực sắc màu, giữa những tràng vỗ tay và những bó hoa. Và anh chị cũng chỉ có một nguyện vọng duy nhất là đem hết tài nghệ đóng góp cho nền nghệ thuật múa nước nhà.

Là một nghệ sĩ múa tài hoa, chị hiểu rằng mình đang trèo lên chiếc thang không có nấc cuối cùng. Đó vừa là niềm hạnh phúc, vừa là nỗi bất hạnh mà bất cứ một ai đã trót phụng sự cho nghệ thuật đều ‎ ý thức được. Phải lao động, lao động không ngừng cả trí óc và bằng cả sự vận động toàn thân theo những luật lệ riêng của nó.

Chị đâu ngờ rằng, niềm say mê cao quí đó đang âm thầm gặm nhấm cái khả năng sinh l‎ý của người phụ nữ mà trời đã phú cho họ.

Như bao người phụ nữ khác, nhiều lúc chị cũng ao ước có được một đứa con. Nhưng chị lại phân vân, sợ như thế, cũng là một trở ngại, dẫu chỉ tạm thời, niềm vinh quang mà nhờ chị, anh mới có được.

Cho tới một ngày tình cờ nào đó, khi nâng niu mấy bông hồng trên tay, chị đã mơ hồ nhận ra rằng, cái phần ẩn náu phía sau vẻ rực rỡ kia, mới thật sự là vẻ đẹp bản chất của chính nó.

Nghe chị nói ra cái sự thật phũ phàng đó, anh im lặng nhìn chị bằng ánh mắt đầy tuyệt vọng. Lần đầu tiên chị thấy thiếu vắng sự thương cảm nơi anh.

Sau những đêm biểu diễn như thường lệ, chị lại trở về căn phòng cũ kỹ và quen thuộc năm xưa. Chị lại bần thần ngắm nhìn mấy bông hồng ủ rũ, lại ngoái nhìn vào góc chiếc sa-lon nơi anh vẫn ngồi. Với một thói quen vô thức, chị nâng niu mấy bông hồng mệt lả đi trong bàn tay mềm mại của mình. Cả căn phòng đầy ắp tiếng trẻ khóc. Chị ngây ngất nhìn khuôn mặt bầu bĩnh, hai má phúng phính ửng hồng và cặp môi chúm chím như những nụ hồng nơi kia. Đứa bé ngủ ngon lành, thỉnh thoảng lại toét miệng cười, đó là nụ cười bà mụ dạy cho nó, chị nghĩ thế. Chị khe khẽ cất tiếng ru, điệu ru con không rõ chị học thuộc từ khi nào. Chị ôm ghì con vào lòng, thảng thốt một nỗi lo niềm hạnh phúc mong manh sẽ tan biến đâu mất. Chị cuồng nhiệt hôn lên khắp mặt con, úp mặt vào bụng con và thiếp đi trong một giấc mơ kỳ lạ. Mãi tới khi thấy nhức buốt nơi cánh tay, chị mới chợt bừng tỉnh. Trong bàn tay mềm mại và ấm nóng của chị vẫn chỉ là mấy bông hồng ủ rũ có những cánh rơi lả tả một góc bàn. Hai cánh tay nhức buốt vì những chiếc gai nhọn cào xước bỗng rỉ ra những giọt máu đỏ chảy thành từng dòng.

Góc chiếc sa-lon, nơi anh thường ngồi, giờ chỉ còn là một khỏang trống vô tận không sao khỏa lấp được.

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

09.
Nước mắt muộn màng
Lê Hồng Bảo


Thằng cu Điu lừng khừng bước ra khỏi bầu không khí mát lạnh của bệnh viện . Giọng sang sảng của vị bác sĩ như còn dội vào đầu nó chan chát: "Sáu trăm ngàn ... làm thủ tục nhập viện ...". Những âm thanh rượt đuổi nhau thúc bách, dồn dập, ... khôn mặt mẹ nó chợt hiện lên . Mỏng lét và nhợt nhạt . Mái tóc bù rối ... đôi mắt lạc thần ... và đôi môi run rẩy ....

Cảm giác mát lạnh không còn nữa ... Nó thấy mình đang đối diện với cái nắng trưa bạc màu phố xá, cái oi nồng bức bối đời thường . Nó như trôi trong mơ giữa muôn ngàn cái thực . Tuổi thơ nó chưa từng biết đến ông Bụt hay cô Tiên . Trong mơ nó thường mong gặp các anh chị trong nhóm Công tác Xã hội . Nó thích kể lể với họ những điều mà nó không thể nói trong thực tại ... Tằng mới đây nó đã lén hút thử một điếu bồ đà ... Rằng thỉnh thoảng nó bắt gặp thằng Tâm bi - lắc còn làm vài "phi vụ" lẻ tẻ nhưng vẫn làm ngơ ... Rằng nhiều lúc nó cũng muốn làm một "cú" cuối cùng để có tiền chữa bệnh cho mẹ nó ... Mà sao lúc này chẳng thấy các anh chị ấy đâu kia ?

Nó nhớ lại lần đầu nó gặp anh Tiến trong một hoàn cảnh thật ... trớ trêu: Nó "xoáy" được một cái bóp rỗng tuếch tiền bạc nhưng chật căng giấy tờ . Chiều hôm đó, thằng Hải lé dẫn anh Tiến đến gặp nó để ... xin lại . Hóa ra, anh không chỉ xin lại bóp giấy tờ mà còn "xin" nó trở về với người mẹ đau yếu của nó . Nó biết, mẹ nó vì lo buồn cho nó mà sinh bệnh . Nhưng không ai nói đến điều đó cả! Lần đầu tiên, nó được nghe những cụm từ: "ý chí phấn đấu", "nỗ lực vượt khó"... Nó thấy mình chững chạc hẳn lên! Nó chỉ "được" gán cho cái lỗi ... nhẹ hều: buông xuôi trong cuộc sống, phó mặc cho số phận ... chả bù với mấy "mẹ" ngồi chợ, luôn miệng rủa bọn nó là: "quân cướp cạn", "lũ gian manh"... Dù sao thì, bên nặng bên nhẹ, nó cũng cảm thấy hài lòng là cuộc đời đã có lúc ... công bằng với nó!

Từ ba tháng nay, nó đã biết đến cảm giác sung sướng, tự hào với những đồng tiền ít ỏi kiếm được từ việc bán báo, bán vé số ... Nhưng bệnh tình của mẹ nó như miếng bọt biển đã hút sạch mọi khoản tiền ấy .

Nó muốn nghẹt thở khi nhìn thấy tờ "100 đô" được nhét cẩu thả vào túi quần sau của một du khách . Ý thức của nó như đóng băng, tê cứng . Một giây ... một phút ... hay một giờ ddã trôi qua ? Khi hoàn hồn, nó thấy mình đang đứng trong một con hẻm vắng . Bàn tay phải lạnh toát của nó đang nắm chặt tờ bạc . Những ngón tay co quắp như cố bấu víu vào niềm hy vọng vô tri này . Không đắn đo, nó đi thẳng đến một tiệm vàng gần đó ... Nó mặc kệ vẻ nghe hoặc trên khuôn mặt ông chủ tiệm . Nhưng khi nắm cọc tiền dày cộm trên tay, nó cảm thấy bủn rủn cả người ... Cố hết sức, nó rảo bước về phía bệnh viện .

Vừa bước vào hành lang, nó đã thấy anh Tiến, chị Hương và cả con Nhàn nữa ... Con Nhàn mặc đẹp hơn thường ngày, nhưng mấy nhánh hoa trên tay nó lại có vẻ hờ hững . Chị Hương coi bộ không xách nổi chục cam và mấy lon sữa . Anh Tiến cứ đưa hết tay nọ đến tay kia lên sờ nắn cái phong bì lấp ló trên túi áo . Mọi người lúng túng như vừa phạm lỗi . Một thoáng hoang mang trên khuôn mặt họ khi nhìn thấy cọc tiền trên tay nó . Nó tưởng như mọi người đang giễu cợt nó . Bất cần! Nó đẩy mạnh cửa phòng cấp cứu . Hơi lạnh đột ngột tràn ra làm nó rùng mình . Cọc tiền vụt khỏi tay nó rớt xuống sàn nhà và bắn ra tung tóe . Không thấy mẹ nó trong p hòng! Một bàn tay nhỏ nhắn rụt rè kéo nó lại . Nó bỗng cảm thấy hụt hầng và rơi ... rơi mãi xuống một nơi mịt mù, không đáy . Giọng anh Tiến khàn đục và chùng xuống thật thấp như để bắt kịp nó: "Mẹ em được đưa vào nhà xác rồi ... cách đây năm phút ... muộn quá!". Tai nó ù đặc . Nó không rõ anh Tiến nói cái gì "muộn": Anh đến muộn ? Mẹ nó được đưa vào bệnh viện muộn ? Hay chính nó trở về muộn ?

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

10.
Đôi mắt
Lê Đình Bích


Tàu chuyển bánh . Ba anh em chúng tôi trong khoang giường nằm bắt đầu không ngớt nhắc lại những kỷ niệm về anh . Những người lính 307 chúng tôi gọi anh là Hai Sáng vì hồi ấy anh em chúng tôi có mắt cũng như mù . Không ai biết chữ . Thư vợ, thư nhà đều nhờ anh đọc hộ . Có những chuyện thầm kín, riêng tư phải đè anh thọc léc hoặc cõng anh lên, anh mới chịu đọc cho .

Có lần đọc đến chỗ quan trọng nhất, hồi hộp nhất: "Cái thai vụng" của người yêu thằng Lễ, anh bắt nó phải quỳ và thề trọn dời chung thủy thì anh mới đọc tiếp cho nghe .

Những người lính Nam Bộ chúng tôi thương cái tánh anh: có chữ mà thật thà, chất phác . Ai cũng quý anh như người anh ruột . Có một điếu thuốc, một gói chuối xào dừa vợ gởi sang đều đem đến dúi vào túi của anh .

Hồi ấy chúng tôi đã hứa với nhau dù sống chế gì hòa bình cũng sẽ kéo về đông đủ ở nhà anh, công anh, thọc léc .

Tàu đến ga Đà Nẵng nửa đêm . Chúng tôi ra lộ ngồi chờ đến mờ sáng thì đón xe về Đại Lộc, quê anh . Đi bộ, đi đò, rồi đi quanh hết xóm này đến xóm khác hỏi nhà tới nửa buổi chiều vẫn không ai biết . May mà có một đứa trẻ chỉ dùm .

- Mấy bác kiếm ai đó ?

- Dạ, có phải nhà anh Hai Sáng đây không chị ?

Người đàn bà ngờ ngợ nhìn chúng tôi rồi đi thật lẹ vào nhà . Chúng tôi hồi hộp đư"ng chờ . Từ trong nhà một người đàn ông chống gậy dò dẫm bước ra .

- Trời! Anh Hai!

- Anh Hai Sáng!

- Tụi em đây nè! Tư Tranh, Sáu Dĩnh, Hai Voi 307 đây anh .

Chúng tôi ôm chầm lấy anh òa khóc .

- Tụi bay tới đây hồi nào hả ?

- Dạ, hồi sáng sớm ...

- Phải tụi bay hỏi Hai Mù thì ai mà chẳng biết!

- Mà sao lại thế này anh Hai ?

- Thì về cuốc đất, vỡ rẫy ... dẫm phải mìn ... Ông nội cha nó! Chiến tranh thì sáng, mà hòa bình lại tối . Bây giờ thì làm răng đọc dùm thơ cho tụi bay !

Anh cười, mà chúng tôi lại khóc . Đứng giữa sân khóc như ba đứa trẻ . Những kỷ niệm cũ cứ dồn về . Bồng từ trong đôi mắt mù sâu thẳm của anh nước mắt long lanh nhỏ xuống .

- Còn thiếu thằng Lễ nữa! Tội nghiệp nó, nó chết mà tao chưa kịp viết dùm thư cho vợ nó .

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

11.
Thú quý
Ngô Thị Kim Cúc

Sau khi xua lũ bình dân cùng những thúng mủng, xe kéo của chúng vào, Côn khịt mũi và bắt đầu màn sau. Tiếng cười òa ra và không ngưng lại được. Những mỹ nữ váy áo sặc sỡ, cầm gương, lược uốn éo, chải chuốt trong khi bọn tay chơi với điếu thuốc, cốc rượu trên tay lấm lét nghiêng ngó… Đến lúc bọn trí thức mặt mũi trịnh trọng, với kiếng trên mắt, và giấy bút kẹp nách đủng đỉnh tiến ra thì cả một cơn bão cười rộ lên. Nhưng cả cái xã hội người ấy, chỉ là bầy khỉ của Côn.
 
- Bao nhiêu – Một gã tóc vàng râu xồm trỏ vào một con khỉ mặc vét tông với quần đùi.

- Năm mươi đô – Côn đáp, bằng thứ tiếng Anh chợ trời.
 
- Quá đắt – Kèm theo là một cái nhún vai.
 
- Nó là giáo sư đó. Còn đây là nhà văn. Hay ông thích triết gia?
 
Gã tóc vàng lắc đầu, trỏ một con khác.
 
- À, nữ ca sĩ, bốn lăm đô.
 
Tay gã kia lại di chuyển.
 
- Đó là hoa hậu, cũng bốn lăm.
 
Cuối cùng, gã tóc vàng ngã giá một ngôi sao điện ảnh – bốn mươi đô, một nhan sắc khỉ ủ dột trong chiếc mini jupe chói đỏ.

Buổi tối, vợ chồng Côn hỉ hả với túi tiền. Côn vừa tu bia vừa tự tán thưởng:
 
- Bọn nó thích mê tơi. Đào đâu ra cái giống quí hiếm như vậy chớ. Hiếm quí như vậy thì chỉ có thể đi ra từ nhà lão Côn thôi.

Côn cười ha hả, đi đến chuồng khỉ. Những cặp mắt đầy vẻ thiểu não u uất đang nửa ngủ nửa thức dòm ra. Những cơn đói kéo dài đã rút cạn sinh lực chúng. Những miếng ăn cầm chừng chẳng nhằm nhò gì đối với cái dạ dày luôn rỗng tuếch. Nhưng chỉ cần vài tiếng chí chóe, bọn khỉ nhỏ sẽ bị lũ khỉ đại bàng tặng cho những cú đấm tát ra trò, để được chủ thưởng cho vài miếng.
 
Côn thò tay vào, bốc một khỉ con đang bú khỏi vú mẹ. Con vật non nớt rúm người lại, rên khe khẽ. Khỉ mẹ nhấp nhỏm, đứng lên, ngồi xuống, liếc trộm Côn với vẻ kinh hãi. Côn đã cắt sữa rất sớm những khỉ con đang bú để chúng không lớn thêm được. Bằng cách đó, Côn tạo ra những thế hệ khỉ càng về sau càng suy kiệt, teo tóp. Và chúng trở thành món hàng đắt giá để Côn móc túi của khách du lịch ham của lạ.

Trong giường, thằng bé ba tuổi của Côn đang ngủ. Lúc nằm, trông nó có vẻ bình thường hơn lúc đứng. Những khi nhìn con, Côn không khỏi cảm thấy một nỗi lo sợ mơ hồ. Kiểu đừng gù gù với hai cánh tay dài buông thong, đôi vai rụt và cái nhìn lom khom của nó hoàn toàn giống khỉ. Cả ngày, thằng bé cứ lân la ngoài chuồng, bắt Côn cho khỉ làm trò. Ngừng lại là nó giãy nảy, la khóc. Nó còn thích ngồi nhơi chuối nhơi kẹo khiến lũ khỉ đòi ăn bên trong dại dột thò tay ra xin, thế là nó đánh rõ đau và rú lên cười. Côn nghĩ đến ngày mai của nó. Với thân thể xấu xí cùng những tính cách bất thường như thế, Côn phải có thật nhiều tiền để bù vào cho nó…
 
- Ngày mai, phải nghĩ thêm vài trò mới… Côn cứ thao thức với các ý định.
 
Buổi sáng, Côn đứng dậy, thấy vợ còn ngủ mà con thì biến mất. Hai vợ chồng tìm khắp trong nhà, ngoài sân đều không có. Ra đến dãy chuồng khỉ, thấy vắng tanh. Côn choáng váng muốn xỉu. Cửa chuồng vẫn khóa. Côn đi đến lắc mạnh các song chuồng và chợt hiểu ra. Lũ khỉ nhà Côn đã teo nhỏ tới mức có thể tự do lọt khỏi song chuồng. Và chúng đã bỏ đi. Tất cả. Khỉ, tiền bạc, cả sự tin tưởng tuyệt đối vào bản thân của Côn. Còn lại thằng con Côn. Nó đâu rồi.
 
Đang muốn chết hơn là sống, bỗng nghe tiếng khọt khẹt. Nhìn lên cây, Côn trông thấy thằng con trần truồng đang bị trói trên đó. Bọn khỉ đã cào xé nó, nhưng không gây thương tích nặng. Hết sức vất vả, vợ chồng Côn mới moi hết ra một mồm lá cây mà bọn khỉ đã nhét cho nó. Không chịu tắm táp, không cho xức thuốc, thằng bé đã đòi ra chuồng khỉ.
 
- Đâu rồi? – Nó hét lên trước dãy chuồng trống không.
 
- À… bọn nó đi chơi rồi… mai sẽ về với con – Vợ Côn cố phỉnh phờ.

- Không… Không… Bắt đền đây… bắt đền…
 
Nó gào lên, giãy dụa. Côn vội vã đi mua mấy con khỉ ngoài chợ về cho nó. Vừa trông thấy bọn khỉ lạ, nó đã nổi điên lên, lấy cây quất tới tấp. Rồi tiếp tục đòi những con khỉ biết làm trò. Ngày này sang ngày khác, nó cứ gào khóc, phá phách, rên rỉ… Bác sĩ cũng chịu thua, không đoán được bệnh. Vợ chồng Côn thất điên bát đảo, bán hết cả gia tài vẫn không chữa được bệnh cho con. Suốt ngày, nó vào ngồi trong chuồng khỉ, ăn những thứ khỉ vẫn ăn và làm tất cả những trò của khỉ.
 
**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

12.
Hoa chanh trái vụ
Văn Như Cương


Ngày xưa, tại làng kia có đôi trai gái yêu nhau rất mặn mà. Người con trai khoẻ mạnh, dũng cảm và chân thành. Cô con gái thuỳ mị, nết na, hay lam hay làm. Dân làng rất yêu mến và vun đắp cho mối tình đẹp đẽ của họ. Nhưng lễ cưới chưa kịp tổ chức thì giặc Pháp tràn đến. Từ vùng tạm chiếm, chúng đánh nống ra vùng tự do. Bộ đội ta vì thế yếu, phải tạm rút lui để bảo toàn lực lượng. Làng rơi vào tay giặc.

Quân giặc hà hiếp dân lành, lập ấp dồn dân và xây đồn kiên cố trên quả đồi thấp đầu làng.

Người con trai quyết định bỏ trốn ra vùng tự do để gia nhập bộ đội chủ lực, còn cô gái ở lại làng hoạt động trong một tổ chức bí mật. Họ chia tay nhau trong một đêm tối trời tại vườn chanh cuối làng.

Tên đại uý đồn trưởng còn trẻ, dáng dấp hào hoa và nặng lòng căm thù Việt Minh. Hắn bị thương vào bàn tay phải trong một trận kịch chiến với du kích. Vết thương đã lành nhưng bàn tay mãi mang tật: các ngón tay co quắp, không thể mở xoè ra. Dân làng gọi hắn là thằng "Quắp".

Cô con gái được tổ chức phân công điều tra tình hình đồn địch. Cô phải làm quen với bọn lính và cả với tên đồn trưởng để được phép ra vào đồn, mua bán những thứ cần thiết cho chúng. Dân làng bắt đầu nghi ngờ, chê cười trách móc, cho rằng cô đã phản đội. Có người gặp cô đã ngoảnh mặt đi, nhổ nước bọt. Sự khinh miệt càng tăng khi mọi người biết rằng cô đã có mang.

Cô sinh con trong sự khinh ghét của dân làng. Đứa con trai hoàn toàn khoẻ mạnh nhưng có một dị tật bẩm sinh: bàn tay phải của nó có các ngón tay nắm chặt, không bao giờ xoè ra. Nhiều lần tắm rửa cho con, người mẹ cố gỡ các ngón tay nhưng thằng bé cứ khóc lên ngằn ngặt, nên đành thôi. Thật đáng đời quân Việt gian, cha quắp đẻ con quắp!

Chín tháng sau khi đứa bé chào đời, bộ đội ta bí mật tập kết chuẩn bị công đồn. Chính cô gái dẫn đầu một mũi tấn công.

Người chồng chưa cưới của cô có mặt trong trận đánh, nhưng họ chỉ gặp nhau một phút trước khi cô hy sinh. Một quả bộc phá nổ gần đã hất cô ngã xuống, tim ngừng đập, nhưng toàn thân cô mềm mại.

Trận đánh thắng lợi, thi hài cô được đưa về ngôi đình giữa làng, phủ lá cờ đỏ sao vàng. Khuôn mặt cô trông như đang ngủ.

Người ta bế đứa bé đến vĩnh biệt mẹ nó. Người chồng đưa tay bế lấy đứa bé, nhìn vào mặt nó hồi lâu. Đứa bé đưa ngang cánh tay tật nguyền của mình và trước sự kinh ngạc của mọi người, năm ngón tay bé bỏng từ từ mở ra như năm cánh hoa. Giữa lòng bàn tay trắng hồng là một nụ hoa chanh còn tươi nguyên và cũng đang từ từ xoè cánh. Mùi hoa chanh trái vụ tràn ngập ngôi đình, ngào ngạt át cả trầm hương.

Người chồng bỗng ghì chặt đứa con vào mặt mình, anh hổn hển nói mỗi lúc một to: "Con tôi, con tôi, con của tôi...".

Bàn tay đứa bé nghiêng đi và hoa chanh rơi xuống nhẹ nhàng như chim hạ cánh, đặt vào đôi môi của người mẹ. Mọi người nín thở trông chờ phép lạ xuất hiện lần hai. Và đúng vậy, bộ ngực của người mẹ trẻ bỗng căng phồng lên như vừa hít một hơi dài, khuôn mặt ửng hồng trở lại. Đôi mắt với hàng mi dài đang khép bỗng rung rinh rồi bừng mở to. Cô liếc nhìn chung quanh và trông thấy hai bố con đang ôm nhau.

Cậu bé được đặt tên là Chanh. Khi cậu tròn 5 tuổi, người cha đã ngã xuống trên cánh đồng Mường Thanh một giờ trước khi toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên lũ lượt ra hàng.

*
Anh Chanh, hiện nay anh ở đâu?

Nếu anh đọc mẩu chuyện này của tôi, xin anh viết thư về toà soạn báo Thế Giới Mới để báo tin. Tôi chắc chắn anh sẽ chứng minh rằng những điều tôi viết trên đây hoàn toàn là sự thật.

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

13.
Mặt trái của phiên bản
Thùy Dương

Mẹ tôi là một họa sĩ. Hồi còn bé, khi nhìn tôi, mẹ thường bảo lớn lên tôi sẽ đẹp trai như bố. Tôi không biết điều đó có đáng tự hào không, ít nhất là trước mẹ tôi. Trong họ, ngoài làng ai cũng biết bố tôi hào hoa và có sức quyến rũ phụ nữ. Tôi nghe bà nội nói rằng, khi bố tôi mất có đến ba người phụ nữ đến xin để tang và được mẹ tôi bằng lòng Đến bây giờ họ vẫn hay đến thăm và đối xử ân cần với mẹ tôi. Bà nội tôi khen mẹ là một phụ nữ nề nếp, đôn hậu và kín kẽ.

Lớn lên tôi được nhiều bạn gái theo đuổi. Nhưng tính tôi cả thèm, chóng chán. Tôi có rất nhiều cuộc chinh phục và nhiều cuộ chia tay. Mẹ không can thiệp sâu vào đời tư của tôi. Chỉ có đôi mắt mẹ là lặng buồn mỗI khi tôi mang về nhà một cô gái mới.

Từ khi bố mất, niềm vui của mẹ là ngắm và sửa bức chân dung của bố do mẹ vẽ. Tôi ngạc nhiên vì càng ngày bức chân dung của bố, mẹ vẽ ngày càng thật hơn, đẹp hơn.

Tối nay, sau khi tiễn ra khỏi cửa – đúng hơn là “ rũ ” ra khỏi cửa - một cô gái mà tôi đã chán ngấy, tôi quay trở vào nhà. Mẹ đang ngồi trên salon ngắm chân dung bố. Tôi nhẹ nhàng ngồi xuống tấm thảm dưới chân mẹ, hỏi nhỏ:

- Con giống bố con…phải không mẹ ?

Mẹ tôi trầm ngâm rồ vuốt nhẹ tóc tôi:

- Ừ, con rất giống bố. Nhưng, bố con khác con ở chỗ…bố con rất yêu quý phụ nữ và biết ơn họ, bố con cũng được họ yêu quý hết lòng. Còn con, mẹ e rằng…con chỉ nhận được sự thất vọng của họ mà thôi. Con đã giống bố con ngày trẻ như một phiên bản. Mà con biết đấy, phiên bản nào cũng có hai mặt và con chính là mặt trái của phiên bản ấy.

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

14.
Chú bé bán báo
Đặng Anh Đào

- Báo mới đây! Báo mới đây! Ngàn lẻ một vụ ly dị! Phỏng vấn con bệnh sida đây! Cô dâu đã xử sự thế nào trong đêm tân hôn?...

Chú bé hoa chiếc loa, gào lên bài học thuộc lòng. Xe bu‎ýt sắp chuyển bánh. Một hành khách lưỡng lự, rồi quyết tâm móc tiền, chìa ra cho chú bé. Tức thì mấy người ngồi quanh như bị lây, cũng móc túi lấy tiền mua báo. Một bà béo rút khăn chấm nước mắt: "Ôi! ở đây người ta viết nẫu cả ruột! Lấy nhau rồi bỏ nhau, đứa bé đi bụi đời!". Ông đeo kính ngỏng cổ cò, giơ ngón tay, đặng hắng, giọng nghiêm khắc: "Năm 1994 là năm gia đình! Quốc tế bảo vệ gia đình!".

Chú bé lần đầu tiên nhìn vào tờ báo. Xưa nay nó đi bán báo nhưng không bao giờ xem báo. Nó đọc thuộc lòng những tít giật gân mà chẳng để ý xem mình đang nói gì. Một khách ngồi ở cuối xe đưa trả lại tờ Model 94: "Này! Bán cho tao tờ báo giống của bà kia cơ!". Chú nhìn chồng báo: đang còn một tờ, cái tờ báo đã làm bà béo thút thít. Nhưng nó ngẩng đầu: "Cháu hết số ấy rồi!".

Nó tụt xuống xe, lao tới cái nhà ấy, quên cả bán báo. Nắng trút lửa, rồi cơn giông ập xuống. Sao hôm nay ông ấy về muộn thế? Nó đói, nó lo báo ướt, lo không bán nốt được chỗ báo còn lại. Trước đây 4 năm, khi bỏ mẹ con nó, ông ấy nói với nó: "Bố không muốn cướp nốt con của mẹ đi. Mẹ chỉ còn con làm chỗ dựa"... Giờ thì đúng như vậy. Mẹ nó ốm, nó đi bán báo. Hai mẹ con sống trong một gian phòng mỏng manh ọp ẹp, như làm bằng giấy báo.

Đến quá trưa, ông ấy mới về, đỡ thằng con nhỏ từ trên xe bước xuống. Ông nhìn thằng bé bán báo sụp chiếc mũ cói gần kín mặt đang chìa tờ báo. Ông có đọc thứ này bao giờ? Nhưng thằng con nhỏ đã cầm lấy một tờ... Họ đã bước vào, thằng bé bán báo vẫn nhìn trân trân vào ngôi nhà. Chợt cánh cửa sổ mở tung. Ông ấy và đứa bé thò đầu ra cửa sổ. Một cánh thuyền bằng giấy báo - tờ báo viết về "Ngàn lẻ một vụ ly dị" - từ từ trôi ra, cùng tiếng cười giòn tan trong mưa rơi. Có tiếng đàn bà dịu dàng: "ồ! Anh đóng cửa lại đi! Mưa tạt ướt hết nó rồi!".Chiếc thuyền dúm dó, lềnh bềnh trôi ra cống. Thằng bé bán báo lấy mũ cuộn chặt mấy tờ báo còn lại, chạy ra giữa trời, giọng rao khản đặc:

- Báo đây! Báo mới đây! Ngàn lẻ một vụ ly dị!...

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

15.
Tìm người
Đặng Anh Đào


Cứ đến mục “Thông tin quảng cáo”, thằng Mít lại giỏng tai nghe cái câu nó thuộc lòng: “Bố ở đâu về ngay… Ai nhìn thấy bố tôi… Bệnh tâm thần… Chân đi dép nhựa Trung Quốc…”. Bệnh tâm thần là gì nhỉ? Nghe phát tin, bố Mít đã quát mẹ: “Sao em lại báo tin là ông già bị bệnh tâm thần?” – “À, bạn em khuyên nên nhắn vậy, người ta đỡ thắc mắc…”.

- Nếu nghe ti vi, bố sẽ không khi nào về nữa đâu!

Thế là cái tivi cũng không nhắn ông nội về được! Đúng lúc ấy, Mít thấy bố nhìn ra cửa: “A! Cậu bạn cũ ở đội đặc nhiệm đến giúp!”. Người lạ mặt cao lớn bước vào, ôm lấy Mít như thể đã quen biết từ lâu. Chú ấy bảo bố:

- Hết bọn trẻ, giờ lại đến các cụ đi bụi đời! Ba tháng rồi hả? Cậu đã báo cho ai ở đồn?

- Tay đó… Người ta bảo nếu mất xe Dream mà hẹn cưa đôi cho nó một nửa thì tìm thấy ngay. Còn mất ông cụ…

Mẹ Mít nhếch mép:

- Ông bạn đặc nhiệm ơi, có tặng cả ông cụ, cũng không ai lấy!

Ba người lớn bỗng lặng thinh. Mít lo lắng hỏi: “Chú nhiệm ơi, chú không đòi chia đôi ông nội chứ?”.

- À, ra tên mình là Đặc Nhiệm… Này sao các cậu không nhắn tin: “Mít ốm nặng. Ông về ngay”.

Mẹ Mít kêu: “Nói dại!”. Nhưng Mít giục: “Mẹ cứ báo tivi đi!... À… Nhưng ở đấy không có tivi thì sao?”.

- Ở đấy là đâu hả cháu? Này, các cậu phải cho mình thằng Mít làm máy dò người thôi. Giống như người ta đi dò nguồn nước ấy… Nào, nói chú nghe thử!

Hôm ấy, có một ông cụ bé tí vào nhà ôm lấy ông nội. Nội bảo xưa nội đã cùng ông ấy đánh chìm tàu địch. Bài học thuộc lòng trong sách lớp một của Mít nói về ông ấy đấy. Ông anh hùng bây giờ bé tí, nhăn nheo như những củ khoai tây héo đem tặng nhà mình. Nội bảo đó là do sức ép của bom.

- Cháu với ông thích ăn khoai! Nhưng mẹ đem cho hết…

Đến đấy, chú Đặc Nhiệm không thể hiểu gì hơn. Bố Mít chỉ nói: “Có lẽ cụ bô Yôga nhầm, tính nết cứ như người tẩu hỏa nhập ma. Ông bạn cụ nhớ ra việc bận, xin ra tàu về ngay. Hôm sau, cụ bô tuyên bố về quê chơi. Bọn mình thì đang bận xây nhà… Ba tháng sau, có người ở quê ra, mới biết cụ đâu có về quê!”. Mẹ Mít im lặng (Rặt khoai non! Cụ cứ thử họp cả tổ hưu lại, đố gọt nổi đống khoai ấy! Mình tống khứ tất cho bọn thợ xây. Sao cụ dễ chạm nọc thế?). Một lúc sau, chị nói giọng thành kính:

- Đã bói một quẻ thiêng lắm. Ngài phán là ông cụ đang ở nơi sông nước…

Bỗng Mít kêu lên:

- Đúng đấy chú ạ!

- Sao cháu biết?

- Hôm ấy trời mưa to. Ông gấp cho cháu cái thuyền thả ra sân, tí nữa thì lật úp. Ông nói hôm đánh tàu địch, trời cũng bão. Rồi dặn cháu ở nhà ngoan, ông đi tìm cái mảnh vụn tàu về cho cháu mang tặng lớp, rồi cô giáo sẽ cho điểm tốt.

- Thế Mít đọc bài thuộc lòng trong sách lớp một chú nghe thử.

- Bài ấy khó thuộc lòng lắm, cháu bị cô cho điểm 1 mà!

- Nào, thế thì đưa sách ra đây! Mà ngữ này thì liệu có còn sách nữa không chứ?

Quyển sách lớp một hóa ra lại là bản đồ dẫn hai chú cháu tới chỗ ông nội. Quê ông anh hùng lại chính là nơi xưa ông đã đánh chìm tàu Amyô Đanhvin. Ông anh hùng bé tí bảo với chú Đặc Nhiệm là ông nội đang chở xe thuê ngoài bờ biển: “Tính ông vậy đó, đâu có chịu bó tay!”.

Thấy ôtô, xe máy, xích lô nào chú Đặc Nhiệm cũng giục Mít nhìn kỹ người lái. Tới chiều ta, người tắm biển đã về hết. Giữa con đường phi lao vi vút, Mít bỗng thấy một cái xe rất lạ. “Xe ngựa đấy! Cháu không biết à?”. “Dạ cháu có thấy trên tivi…”. Bỗng Mít buông tay chú, ào chạy tới. Con ngựa chồm lên.

- Ông ơi!

Chú Đặc Nhiệm ngạc nhiên nhìn ông nội ghìm ngựa bước xuống. Không phải ông già “Khốt ta bít” như anh vẫn hình dung. Thời gian chưa làm sụp đôi vai và ánh chiều ta hắt lại trên gương mặt những nét như tạc khiến anh liên tưởng bức tượng Tào Mạt.

… Hôm sau, trên bãi cát, chú Đặc Nhiệm ngồi ngắm hai ông cháu. Họ vừa xây xong cả một tòa lâu đài, núi non. Ông Mít không nhặt được một mảnh vụn nào của chiếc tàu xưa. Biển đã cuốn hết.

- Ông ơi, bố xây xong nhà mới rồi, ông về đi.

- Chú dẫn cháu về trước, để bố mẹ yên tâm. Hết hè, vắng khách, ông lại về với cháu.

Đứa bé ôm chặt lấy ông. Đây là cuộc chia ly đầu tiên của nó.

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân


16.
Bức ảnh
Nguyễn Khoa Đăng

Chàng nghệ sĩ ấy từ thành phố về nông thôn cặp với một cô gái kéo vó bè. Lần ấy, sau một đêm nồng nàn tâm sự trong túp lều của người tiền sử bên bờ kinh, chàng nói : "Ðể anh chụp cho em một bức ảnh".

Sáng ra chàng núp trong lùm cây dừa nước, mặc cho lũ muỗi đói ăn chích đau nhức nhối, cố chờ bằng được cái tích tắc xuất thần để bấm máy.

Mãi gần trưa điều ấy mới đến. Ðó là lúc dưới lòng kinh đang rồng rắn một đoàn xuồng đám cưới. Trai thanh gái tú đẹp như hoa. Quần áo, ô dù rực rỡ như những cánh bướm. Chờ cho lúc xuồng cô dâu đến lúc chuẩn, chàng vẫy mạnh tay. Cô gái trên bờ theo đúng kịch bản tức thì kéo dây đu người lên cao. Mắt vó như chiếc màng nhện khổng lồ dát bạc lấp lánh. Chàng giơ máy lên. Nở một nụ cười. Tách. Nhưng sao thế kia? Cả chiếc vó to kềng bổng đổ sụp xuống. Hệt như nơm úp cá. Ðám người đi cưới cũng lại như cá, lục ục, sặc sụa dưới nước. Kết quả thật bi thảm. Một người chết. Ðó là bà nội cuả cô dâu. Còn lại đều uống nước no. Cô gái kéo vó bị bắt giải đi ngay.

Chả biết vì lẽ gì mà cô khai:

- Tôi giết bà mẹ ông chủ tịch xã để trả thù vì ổng gây khó cho việc cất vó cuả tôi.

Nghe đâu cô gái phải chịu án tử hình hoặc chung thân nhưng do còn tuổi vị thành niên và bà cụ kia chết còn do quá già yếu nên cô chỉ bị phạt có 15 năm tù.

Cô thụ hình được ít lâu thì cái kết quả của đêm tâm sự nồng nàn với chàng nghệ sĩ bộc lộ. Giám thị trại cải tạo, theo luật, phải cho cô tạm hoãn thi hành án để về nhà sinh đẻ. Khi làm giấy xuất trại, cô nhất định không chịu khai tên tác giả của cái bào thai. "Ðể anh ấy còn phấn đấu vì nghệ thuật. Một bức ảnh đẹp nhưng người chụp ra nó bị mang tiếng xấu thì bức ảnh cũng bị coi là xấu!". Cô nghe người ta nói vậy.

Từ trại giam cô không về ngay với cái vó bè mà đi thẳng lên thị xã để gặp chàng: "Anh không bao giờ bỏ em đâu". Lời chàng gõ nhạc trong tai cô.

Chiếc xe đò đến bến sau hành trình, cô đếm đúng bảy chục cây số. Ra khỏi bến, cô gặp một tấm pa-nô TRIỂN LÃM ẢNH NGHỆ THUẬT CỦA NGHỆ SĨ… Tim cô đập rộn. Ðúng là chàng rồi. Cô bước vào sân nhà triễn lãm. Lại giật mình lần nữa. Bức ảnh to bằng cái chiếu dựng sừng sững trước cửa kia rõ ràng là ảnh cô. Là cô thật rồi. Hai cánh tay trần giơ cao như đang với lấy trời xanh. Tà áo, mái tóc bồng bềnh quyện với mây trời, dưới dòng kinh, hoa người, bướm áo rực rỡ. Nhưng miệng cô cười mà nước mắt lại chảy.

Hôm ấy chàng vừa giơ máy, còn cô thì đang dớn người đu lên cao. Mối giao cảm giữa hai con người đang làm cô hào hứng thì bổng đâu, phựt một cái, toàn bộ các nút áo cuả cô bị bung ra. Ðôi báu vật một đời con gái mà đêm qua cô đã dâng hiến và hứa chỉ tặng riêng cho chàng, có nguy cơ bị phơi bày, thành của chung thiên hạ. Buộc lòng cô phải buông sợi dây ra để hai tay khép kín vạt áo. Không phải cô không hiểu những điều gì sẽ xảy ra khi chiếc vó úp xuống. Nhưng cô chọn cách này. Vì chàng...

Chợt một chiếc xe du lịch đổ xịch sát bên cô. Không muốn để những người sang trọng nhìn thấy vẻ mặt xanh lét, tiều tụy của mình, cô vội đứng nấp sau bức ảnh.

Từ đây cô chỉ còn nghe thấy. Sau tiếng giày dép nện lộp cộp và một giọng nói làm cô đứng tim.

Giọng cuả chàng:

- Nhờ ông bấm cho chúng tôi một "bô". Vợ mới cưới của tôi muốn chụp chung với tôi trước bức ảnh này vì nó vừa được thưởng huy chương vàng.

Cô gái nín thở, hai tay ôm lấy bụng và... hoá tượng đằng sau bức ảnh.

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

17.
Đi tết thầy
Nguyễn Khoa Đăng


Sáng ba mươi, đang vui với tám quân bài tam cúc mới được chia đỏ rực bộ ba "tướng sĩ tượng", thì bố tôi đưa cho gói quà tết bọc giấy điều:

- Lớn rồi, tết này con đi tết thầy một mình! chẳng có gì. Cặp bánh chưng với cân đường gọi là.

- Tôi gật đầu nhưng bụng rất run. Tôi vốn là đứa trẻ nhút nhát. Chưa dám đến nhà ai một mình. Kể chi nhà thầy giáo có tiếng nghiêm khắc như thầy tôi. Thành ra trên đường có bao nhiêu cái vui của ngày tết mà tôi chả thiết gì. Tranh gà, tranh lợn, tố nữ, đu xuân. Lại có chỗ trẻ con đá bóng. Chiếc bọng đái của con lợn tết phơi khô thổi hơi vào căng cứng, chân chạm đến nẩy câng câng. Tôi cũng chả thiết!

Tôi đi thật chậm nhưng rồi cũng đã đến cổng nhà thầy. Đã mấy lần giơ bàn tay nhỏ bé định đập nên đó nhưng cả mấy lần tôi đều rụt lại. Sợ quá. ước gì có ai đó ra mở cổng. Tôi sẽ dúi vào tay cái khối nặng nề này rồi ù té chạy đi. Nhưng chờ mãi chả thấy. Chỉ thấy còn cách là quay về. Rồi muốn ra sao thì ra!

Đường về, tôi đếm từng bước một. Đã đến quán nước bà Ngải, một bà lão sống mỗi một mình từ hồi nào. A! phải rồi! Tôi rẽ vào quán, đặt vội lên đôi bàn tay nhăn nheo run run của bà gói quà tết:

-Thầy u cháu....

-Bà lặng người đi. Cái miệng móm mấp máy:

- Đa tạ ông bà...

Xong việc, tôi về đến nhà, mặc dù tự trấn an: "Thấy giáo thì thiếu gì quà tết" nhưng vẫn cứ thấy bứt rứt. Tâm trạng của người vừa phạm tội, vừa không. Bố tôi không nhận ra điều ấy nên đã reo lên khi thấy tôi về:

- Thằng này giỏi! Tết thầy một mình!

Bố tôi càng khen, tôi lại càng nơm nớp chờ đợi...

Ngày mồng một, điều ấy không đến, may sao!

Ngày mồng hai, lạy trời, cũng thế. Nhưng...

Vừa mới sáng bảnh mắt, bà cụ Ngải đã xồng xộc bước vào nhà, miệng rối rít:

- Năm mới kính chúc ông bà làm ăn phát đạt bằng năm bằng mười năm ngoái...

Tôi chạy tọt vào buồng. Tim thắt lại. Bà ơi, bà đừng nói cái chuyện hôm trước bà nhé.

- Sau nữa xin cảm ơn ông bà có lòng nghĩ tới kẻ nghèo hèn như tôi. Cặp bánh ông bà cho, nó không phải bằng gạo, bằng thịt đâu, bằng vàng đấy ạ!

Tôi tái người, chỉ còn biết ngồi sụp xuống chờ ăn đòn. Quả không sai, bố tôi nghiêm mặt nhìn tôi sau lúc bà Ngải về:

- Vậy là thế nào?

Tôi nghĩ ngay được câu biến báo:

- Dạ, thầy con nhận rồi sai con tết lại bà...

- Thật không?

- Thật ạ!

- Được rồi, để tao xem lại!

Bố tôi rất ghét nói dối, xưa nay đã nói là ông làm, tôi chỉ còn biết cầu mong bố tôi quên việc đến gặp thầy. Mà rồi sau đó bố tôi quên thật. Có lẽ nhờ mải mê lau chùi những món đồ thờ. Bố tôi đã vừa làm vừa đọc lên những câu đối tiếu lâm làm cả nhà cùng cười. Tôi tạm yên dạ.

Ngoài sân bỗng vang lên tiếng chào. Tôi giật mình nhìn ra và tái mặt. Thầy tôi. Trời ơi, làm sao thầy lại đến nhà tôi vào giữa lúc này!

Tôi nhảy tọt vào buồng run còn hơn buổi sáng. Tôi nghe thầy nói:

- Có hộp mứt đến mừng tuổi ông bà. Cũng là cảm ơn ông bà đã cho bánh tết. Gớm, bánh gói khéo quá. Vừa chặt tay lại vừa đẹp.

Tôi không tin ở lỗ tai của mình, vội lẻn ra khỏi buồng, chạy thẳng một mạch tới quán bà Ngải. Trên mảnh gỗ lâu nay vẫn được làm bàn thờ tổ tiên của bà vẫn là cặp bánh chưng nhà tôi lại thêm hộp mứt giống hệt cái hộp thầy vừa mừng tuổi bố mẹ tôi. Chẳng để tôi kịp hỏi bà Ngải đã a lên:

- Cậu. Bữa cho quà, cậu bỏ quên lá thơ. Lão nhờ người đọc mới biết thơ thầy u cậu gửi cho ông giáo. Lão vội đưa tới ông giáo ngay, nhân dịp biếu ông giáo chục cam. Cảm ơn ông giáo dạy học trò biết nhớ đến người nghèo. Ông giáo nhận thơ lại còn cho mứt. Quý hoá quá!

Vậy là còn lá thư trong gói quà tết tôi nào biết. Nhưng tôi biết, thầy tôi đã đọc thư, đã rõ hết chuyện, đã đỡ đòn cho tôi. Nếu không, phải ăn đòn ngày tết thì giông cả năm. Có khi cả đời.

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân


18.
Viên ngọc ẩn
Xuân Đình


Ông Tư thấm mệt gác cây cần lên chiếc thuyền nan, ngước mắt nhìn trời, miệng chửi đổng. Mẹ kiếp! Nắng dữ! Suốt 3 tháng liền chẳng một giọt mưa. Cứ cái kiểu này thì làm ăn mẹ gì đây!

Câu cá tràu ở trên con bàu Lâm yên này đã gần hai chục năm, ông tư chắt bóp dè sẻn, tuy không dư dả, nhưng cũng đắp đổi qua ngày. Đặc biệt năm nay trời hạn mãi, cá tràu chẳng chịu vầy tổ đẻ trứng. Sự tình cứ như thế này, ông không biết đào đâu ra tiền gạo nuôi đàn con nheo nhóc và bà vợ ốm đau mãi ấy! Ông Tư cảm thấy mệt mỏi rã rời nghĩ đến cái cảnh con thơ ngồi trên mui thuyền ngóng mắt chờ cha, vợ đau nằm trong xó xỉnh cầu nguyện cho chồng làm ăn gặp vận. Càng nghĩ ông càng buồn!

Ông chạnh lòng nhớ lại những tháng năm còn sống với bố mẹ. Bao nhiêu nỗi nhọc nhằn cay đắng vì lũ ông mà bố mẹ phải gánh chịu không một lời than thở. Tình thương ấy cứ gắn mãi trong lòng mỗi người cho đến khi mấy chị đi lấy chồng, ông lấy vợ, ở riêng. Tình mẫu tử thiêng liêng đã thấm mềm trong cơ thịt và với ông, nó như một sợi dây vô hình đã ràng buộc vào con thuyền lênh đênh, vào cái nghề cực khổ này. Bỗng tiếng tù và rúc một hồi dài kéo ông quay về thực tại. Con vịt mồi nằm trên sạp gỗ trố cặp mắt ráo hoảnh nhìn sang ông. Cây cần câu lưỡi vẫn buộc chặt trên thân. Ông thầm nghĩ: không lẽ hôm nay chẳng hơn gì hôm qua sao!

Mặt trời đã tròn bóng. Tiếng mái chèo lại bắt đầu khua bì bõm, lau lách trên mép bờ bàu. Cứ thế con xuồng lấn dần những gần cây số đường nước mà vẫn chưa bói ra mẻ nào! Bất chợt từ phía bên kia đám lùng, một cái vẫy ầm toé nước. Ông khấp khởi mừng thầm, lao nhanh xuống tới. Quả đúng như dự đoán. Một tổ cá vầy trong bụi cỏ to hơn chiếc nón. Trứng trắng đã ngả màu đen xạm dàn trải lên lớp màn đục. Ông đoán chắc là chúng sắp nở con. Cái nghề sống gần hai mươi năm ấy đã dạy ông biết chắc một điều: trứng sắp nở, bố mẹ nó sẽ tợn hơn nhiều, bất chấp cái chết để bảo vệ cho bằng được đàn con ra đời. Lòng ông rộn niềm vui. Tay ông buộc vịt, tra mồi mà đầu ông mải nghĩ đến cuộc đọ sức tuy không cân xứng về lực, nhưng tài mưu lược đôi bên có lẽ ngang tầm. Ông buột miệng quả quyết kêu lên: "Tao sẽ thắng vì lũ con tao đang cần chúng mày!".

Quả thực ông Tư đã thắng! Hai con cá tràu nằm sườn sượt trong lòng xuồng. Chốc chốc chúng ngoi đầu lên, vẫy đuôi đành đạch như cố tìm đường tẩu thoát để về với lũ con sắp ra đời của chúng, nhưng bất lực...

Ngôi nhìn cặp cá, ông Tư sắp sẵn trong đầu: một con bán đi lấy tiền đong gạo. Con cá mẹ lớn hơn làm thịt nấu cháo cho lũ con đánh bữa đỡ lòng qua những ngày đói khát. Sự dự tính tưởng chắc như cơm vào miệng. Ai ngờ, con cá đã trút hết vảy để lộ cái thân hình nõn bà, bà Tư sơ ý, đánh rơi xuống bàu, lẩn mất tăm.

Cơ sự đã thế ấy, hai vợ chồng và lũ con ông ngồi sững sờ nhìn nhau! Chết điếng!

Sáng hôm sau khi ông mặt trời thức dậy, như thường lệ, ông Tư tu một bát nước chè hầm, cho cần và vịt mồi vào xuồng rồi lướt sóng ra đi. Ông gặp tổ cá sớm hơn hôm qua. Trước mắt ông cái tổ con đen sạm cũng chỗ ấy, hôm qua, một con cá tràu thân trắng tợ bông đang lững lờ bơi qua bơi lại. Mắt ông hoa lên, ông dụi tay xem lại. Bất chợt ông thảng thốt kêu lên: "Chính nó rồi!". Trời ơi! Vượt mấy cây số đường nước với cái hình hài trơ trụi thế kia mà nó vẫn cố tìm về. Và về kịp, lúc những chấm cá tràu bắt đầu hiện li ti trên mặt nước. Lòng ông bàng khoàng! Tay chân bủn rủn! Không còn ham muốn gì nữa, ông đành quay xuồng lặng lẽ trở về...

Từ đó, trên cái bàu Lâm Yên này, không còn ai thấy bóng dáng con thuyền của gia đình ông Tư đỗ ở đấy nữa....

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân


19.
Hoa cho người sống
Nguyễn Trung Đỉnh


Tôi là kẻ quét rác, xén cỏ trong công viên. Cái nghề ít ai để ý, chỉ có tự tôi hay để ý mình. Người ta gọi đó là mặc cảm, chẳng biết có đúng không?

Nơi tôi làm, đã thành nếp, sáng sớm các cụ vô tập thể dục. Khi các cụ về thì khách thập phương tới. Trưa, họ kéo nhau đi ăn và chiều, lại các cụ và các cháu nhỏ. Mãi tới tối thanh niên mới vào! Cái chu kỳ, chỉ bị phá vỡ vào dịp Tết hoặc ngày chủ nhật. Thỉnh thoảng cũng có ngoại lệ, ấy là vào giờ nghĩ trưa, các cặp tình nhân đến đây, hú hí vài giờ, rồi lặng lẽ rút. Ðôi khi có một bố già xấu tính, kiếm đâu được cô bồ nhí, đú đởn trong lùm cây, hoặc có gã choai choai ôm eo mụ nạ dòng mập ú. Những ngoại lệ ấy tôi nhổ nước miếng , bỏ qua . Nhưng có một trường hợp khiến tôi day dứt mãi, đó là bà lão, nhìn vẻ ngoài chẳng có gì đặc biệt. Bà xách cái giỏ nhựa, ngày ngày tới ngồi trên ghế đá lặng lẽ têm trầu với cái vẻ lơ đễnh cuả người vô cảm, không ra buồn cũng chẳng ra nhàn hạ. Dáng bà thanh mảnh, nhưng không phải cái thanh mảnh cuả người thành phố. Nghĩa là hơi thô và cứng. Cái cách bà ngồi đó, không ra người giàu, cũng chẳng thể nói bà nghèo. Ðôi lúc bà cũng đi dạo, nhưng những bước chân tự chúng đưa bà đi đâu đó, chứ quyết không phải bà chủ định tới cái đích nào. Rồi bà ngồi thẩn nhìn vào khoảng không. Tôi đã từng mon men tới gần quét dọn, hy vọng được bà bắt chuyện, nhưng bà lảng sang chỗ khác ngay.

Cái ghế đá ấy, cả năm nay, chỉ dành riêng cho bà. Khi bà về, không còn dấu vết gì, kể cả bã trầu.

Bẵng đi hàng tháng không thấy bà tới, lòng tôi bồn chồn lo ngạị chỉ sợ bà đau ốm thì khổ lắm.

Nhưng bà lại xuất hiện. Sự xuất hiện cuả bà làm tôi mừng rỡ. Mặc dù nom bà có vẻ gầy hơn, xa vắng hơn. Bà vẫn mặc bộ đồ lụa thẫm giản dị với búi tóc bạc, khoác hờ chiếc khăn nhung mỏng màu đen và vẫn xách giỏ nhựa, âm thầm như cái bóng.

Một lần. Hai lần... Bà đến rồi đi, tựa hồ có sự phân định nhịp nhàng giống như công việc đơn điệu cuả tôi, tháng tháng lãnh lương, ngày ngày cặm cụi, riết rồi thành quen, thành ra yên phận. Nói là nói thế, những lúc đẩy cái máy xén cỏ rù rì, tôi cũng hay rù rì nghĩ ngợi, rằng chẳng biết thế nào nhỉ? Con người ta có số phận thật. Bà lão ấy ngày ngày ra công viên, chơi một mình, về một mình, chắc hẳn đời sống thanh nhàn lắm? Mà biết đâu chẳng phải thanh nhàn!? Tôi từ tấm bé lận đận, ba má mất sớm, học hành bỏ dở, chỉ biết lo kiếm sống, xin được việc làm ở đây, rồi lấy chồng, sanh con, được cái chồng hiền, con ngoan thế là mãn nguyện lắm. Có lẽ vì thế tôi ít ước mơ, ít nghĩ ngợi. Hễ thấy ai nghĩ ngợi là tôi lo, tôi sợ, mặc dù chẳng biết lo cái gì và sợ cái gì. Sự hiện diện cuả bà lão khiến tôi bối rối. Thương chẳng phải thương. Hình như tôi bị ám ảnh. Sáng ra làm việc, đã thấy bà lão ngồi đó nhai trầu. Tôi thầm theo dõi bà. Bà nhai trầu cho có cái để nhai, rồi lẩn thẩn lục lọi trong giỏ, sau đó ngồi im phắc. Trưa, bà lủi thủi xách giỏ về. Chiều bà lại tới, sự lặp đi lặp lại ấy dai dẳng đến nỗi tôi không chịu nổi. Một hôm tôi quyết định theo bà, khi cơn dông chiều ập xuống. Bà lập cập xách giỏ, lập cập bước, lập cập cuối chào ông gác cổng rồi men theo lề đường, tới góc phố có ngôi biệt thự, bà dừng bước, mở khoá lách vô. Tôi chưng hửng quay lại, chợt thấy có tiếng ô tô con, kiếng màu, cũng rẽ vào ngôi biệt thự. Tôi cảm thấy vô duyên cho nổi day dứt bấy nay cuả mình. Ngôi biệt thự ấy ngày nào tôi chả đi qua, bốn bề kín cổng cao tường, hoa ti gôn nở rộ, um tùm. Các cánh cửa sổ trên tầng lầu đóng im ỉm, như thể nó đã đóng từ thời xa lắm rồi. Rõ ràng đây không phải là nhà cũa dân thường! Nhà dân thường chẳng ai, cửa đóng kín thời kinh tế mặt tiền.

Thế nhưng, từ hôm phát hiện ra bí mật ấy, không hiểu vì sao chẳng thấy bà lão ra công viên nữa. Ngôi biệt thự vẫn đóng kín, chiều chiều chiếc xe con vẫn lọt vô. Có tới hai tháng vẫn vắng bóng bà. Lòng tôi se buồn. Bỗng một buổi sáng, hai ngả đường giáp ngôi biệt thự xe con đậu kín, có cả xe ca và xe tải, chiếc nào cũng ngờm ngợp vòng hoa. Từng đoàn người trang trọng nối đuôi vào viếng. Tấm hình bà lão dán trên góc, bảng cáo phó trước cổng ngôi biệt thự, báo tôi biết bà không còn nữa. Tự dưng tôi cảm thấy bơ vơ. Ông già gác cổng đứng nhìn sang đám tang, chép miệng:

- Tội nghiệp bà lão, chết không được một tiếng khóc!

- Hoa nhiều quá, chắc bả làm gì to lắm? Tôi nói.

Ông già nhìn tôi vẻ thương hại:

- Con bả làm chức to. Hoa cho người sống đấy cháu ạ!

Tôi quay người, lau đi nước mắt...


**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân


20.
Chàng thi sĩ đã chết
Phạm Đức


Đã đến lúc cô cảm thấy xao xuyến khi thấy bóng chàng từ xa. Một người con trai nhỏ nhắn, nói năng khẽ khàng, bước đi cũng nhè nhẹ. Và nụ cười ngượng ngập thỉnh thoảng lại xuất hiện như một cử chỉ xin lỗi.

Lần đầu chàng đến, đứng mãi, lầm lì giữa những khách ra vào, đến nỗI cô cảm thấy khó chịu. Rồi chàng đi, tay cầm một bó sách nhỏ. Chẳng rõ chàng vui hay buồn. Đúng hơn, chàng cứ lững thững đi, như lướt chậm chạp trên mặt đường lóa nắng. Chính sự phớt đời ấy tao ra vẻ kiêu hãnh, làm một người đẹp vốn được nhiều chàng trai săn đón như cô cũng phải chú ý.

Lần sau, thấy chàng đến đứng nép bên góc quầy, nhường khách tấp nập ra vào. Dường như chàng đang chờ đợi điều gì. Như chàng nuốn hỏi điều gì….

Lạ thế! Cô hoàn toàn không biết chàng, kể cả thuở nhỏ đến suốt thời sinh viên vui vẻ và cực nhọc. Thế thì….

Lúc đó, đột nhiên của hàng vắng lặng. Chỉ còn lại hai người. Cô vừa định hỏi thì đã nghe tiếng chàng nhỏ bé, như hụt hơi:

- Chị ơi…chị…có thể!

Cái giọng nhỏ, nhưng cố giữ vẻ trang trọng làm cô giật mình, đó chính là giọng của cô khi đi nhờ vả, cậy cục, chạy vạy xin một chỗ làm việc. Cái nỗi cay cực, nhục nhã ấy, cái sự uốn éo ấy…cô không chịu nổi. Thà ra ngoài tự lo liệu lấy. Mình làm chủ mình, không phải ỉ eo, lo sợ, tránh né, lấy lòng…Ôi ! Chính cái giọng ấy – cái giọng của con người kiêu hãnh lần đầu phải chịu quỵ luỵ. Cô khích lệ:

- Anh đừng ngại, cứ gọi em là Ngân. Em có thể giúp anh điều gì?

Vẻ mặt anh hơi hửng sáng, nhưng giọng vẫn ngập ngừng:

- Chả là…là..thế này.

Anh nhấc cánh tay lên và cô nhìn thấy bó sách nho nhỏ của lần trước. Cô mỉm cười, đỡ lời:

- Em có thể bán hộ anh những cuốn sách đó.

- Nhưng…nó là…thơ.

Tự nhiên anh đỏ mặt. Cô an ủi:

- Không sao, cứ để đấy anh ạ. Cũng có người thích thơ đấy…

Rồi cô đọc những bài thơ của anh trong tập thơ mỏng ấy. Tác giả còn lạ lẫm.Nhưng thơ của anh sao mà gần gũi với cô đến thế. Nó sâu thẳm, lặng im, dồn nén. gợi mở và bao trùm là sự vùng vẫy muốn được sống thật mình và được yêu hết mình…

Dẫu vậy, vẫn chẳng ai mua cuốn nào.

Lần sau, anh đang tần ngần từ xa, cô đã vẫy gọi.

- Anh xem. Đã bán được hai cuốn. Có người bạn sẽ mua mươi cuốn đem về tỉnh đấy.

- Thế à !

Mặt chàng rạng rỡ, đáng yêu làm sao. Cô cũng sung sướng vì sự nhanh trí của mình. Cô cất những cuốn thơ “đã bán ” vào trong ngăn tủ riêng của mình ở nhà. Cô sẽ mua cả 50 tập thơ này. dần dà, ít một, để chàng khỏi nghi ngờ.

Chàng cần được khích lệ và tăng thêm lòng tin để đi lên. Còn cô – cô yêu những vần thơ ấy, nỗi lòng ấy, tâm tình ấy…Lâu dần, cô thấy mong nhớ chàng từng ngày, từng buổi, từng giờ khắc. Dường như đó là…

Bẵng đi hàng bốn, năm tháng, không thấy chàng đến. Cô mong mòi, buồn, xao xác, lặng lẽ, rồi cố quên mà không được. Chợt một buổi có chiếc Cúp đỏ rú rít, ào tớI, phanh két sát mép quầy. Và…thực chăng: đó là chàng thi sĩ ngày nào? Cô hớn hở nghẹn ngào:

- Ôi, anh! Bán hết rồi.

Anh xì một tiếng:

- À! Mấy cuốn thơ phải không? Trò vớ vẩn!

Cô bỗng chết lặng, không còn nghe rõ anh khoe đã kiếm được chỗ làm ở đâu. Chỉ nhìn thấy cái dáng béo mượt, điệu đàng, phách lối. Chàng thi sĩ của của cô đã chết rồi !

Cô lặng lẽ quay mặt vào phía những giá sách báo và tự nhiên thấy chúng nhoè nhoẹt, mờ dần!

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân


21.
Lô gich
Phạm Đức


Hồi trẻ, tôi học giỏi, đẹp trai, lại có tài đàn nhạc nên lúc nào cũng sẵn tới cả tiểu đội các cô gái quấn quýt bên cạnh. Tôi chẳng dại gì mà không "hoa lá cành". Ngoài 20 tuổi tôi đã "nổi tiếng" khắp thị xã.

Mẹ tôi lo lắng, thường treo tấm gương của bố tôi để răn bảo:

- Anh nên học tập ngay bố anh đấy. Bố anh thuở trẻ chỉ yêu có mình mẹ và cho đến bây giờ vẫn không hề tơ vương đến một người đàn bà nào khác, dù bố anh đẹp trai và có quyền chức.

Tất nhiên, tôi vô cùng cảm phục bố tôi và cũng không nỡ để ngoài tai lời khuyên của mẹ.

Tôi lấy vợ, đẻ con, lòng chôn dần những cuộc tình đầy hấp dẫn bên tấm gương sáng bố tôi.

Bỗng dưng - tôi nói bỗng dưng không hiểu có lô gích không - nhưng quả là từ dạo về hưu bố tôi bỗng dưng đổi thay tất cả. Ông sà vào đi thực tế các quán bia đèn mờ, mon men đến điều nghiên các sạp nhảy, gần đây còn "kết nghĩa anh em" với một cô chiêu đãi viên, bất chấp mọi lời can ngăn và những giọt nước mắt cay đắng của mẹ tôi.

Nheo cặp mắt đã đục hơi sương, mẹ thiểu não bảo tôi:

- Mẹ lo lắm! Không phải là lo cho bố anh mà lo cho anh. Lo cho các cháu. Bố anh ngày trước nghiêm chỉnh, đứng đắn như vậy mà bây giờ... Hồi trẻ, tính khí anh vốn đã bừa bãi... đến lúc về già không hiểu sẽ còn đến đâu...

Tôi cầm tay mẹ, cố đùa cho mẹ vui:

- Không có gì đáng sợ đâu mẹ ơi. Con và bố cùng đọc một cuốn sách. Có điều, con thì đọc từ trang đầu tới trang cuối, còn bố thì đọc lộn ngược từ trang cuối trở về trang đầu. Chuyện đời, xin mẹ cứ yên tâm.

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân


22.
“Quán lá thu”
Nguyễn Phan Hách


Cũng lâu mới có dịp trở lại Hà Nội. Cuối thu. Ban đêm đi dọc hàng cây sữa, thấy mùi hương sực nức. Cuối phố này tôi có một địa chỉ quen...

Mấy chục năm xưa, tôi là chú bé nhà quê ra thành phố vừa học vừa kiếm việc làm. Một buổi tối gió bấc đầu mùa, tôi co ro đi lang thang trong mùi hoa sữa. Những hàng ngô nướng đêm sáng lập loè. Gió vi vút mùi cà phê ở đâu toả ra ngoài ngào ngạt. Ngẩng lên, thấy tấm biển "Lá thu cà phê" rọi đèn mờ ấm cúng. Nhẩm tính trong túi còn đủ 5 hào, tôi quyết định bước vào.

Quán nhỏ. Bàn ghế bằng trúc vàng sơ sài. Nhưng giật mình thấy trên vách treo mấy bức sơn dầu của một hoạ sĩ tài hoa tôi hằng ngưỡng mộ mà chưa biết mặt.

- Bác sao có những thứ này - Tôi hỏi chủ quán.

- Cậu cũng thích tranh à - Chủ quán, một người vẻ nho nhã, tóc hoa râm, mỉm cười.

Tôi ngồi vừa ngắm tranh, vừa rung đùi tận hưởng từng ngụm cà phê thơm ngon. Phải công nhận cà phê của ông tuyệt thật. Vào thời kỳ đó, hình như cả thành phố chỉ có vài quán cà phê thì phải.

Đang lim dim mơ màng để khói cà phê phả mờ trên mặt, thì chợt thấy một người vừa bước vào. Chủ quán và ông khẽ gật đầu chào nhau, vẻ quen thân từ lâu. Ông người dỏng cao, gương mặt buồn đẹp, xanh xao. Ngón tay thanh tú trắng muốt nâng ly cà phê, mắt trầm ngâm ông nhìn những chiếc lá vàng bị gió bứt ào ào rơi ngoài cửa sổ. Uống xong, đứng dậy, lặng lẽ đi ra. Không thấy trả tiền.

Chủ quán nháy tôi.

- Cậu biết ai đấy không? Tác giả của những bức tranh kia đấy đấy!

Trời, tôi thảng thốt. Không ngờ vừa gặp được thần tượng của mình. Bất giác nhìn lên, một giây khắc như cảm nhận được tất cả sự huyền bí diệu kỳ của những bức tranh trên vách, mà lúc khác chắc không thể biết được.

- Những bức tranh tuyệt đẹp này - Chủ quán nói - là tặng phẩm của ông ta cho tôi, để trả ơn những tách cà phê thơm ngon mà tôi đã đãi ông suốt bao năm qua...

Lòng tôi rưng rưng. Vụt nhớ giai thoại Van Gốc vẽ lên gỗ mặt bàn quán trọ để trả nợ.

- Hay có thể nói ngược lại - Giọng chủ quán thầm thì - Những tách cà phê thơm ngon trong những giây phút gió bấc đầu mùa như đêm nay, cùng sự cung kính đối với nghệ thuật của tôi, là để trả ơn những bức tranh tuyệt tác...

Từ hôm ấy, tôi thường trở lại quán cà phê Lá thu mỗi khi trong túi tích cóp đủ 5 hào. Và tôi thường được ngắm nhìn người hoạ sĩ tài hoa trong khoảnh khắc ngắn ngủi của một ly cà phê bốc khói.

Thoắt cái, mà những ngày ấy đã trở thành dĩ vãng xa xôi...

... Tôi hồi hộp dừng lại nơi cây sữa cuối cùng của dãy phố. Quán cà phê Lá Thu nhỏ bé, mái ngói rêu mốc đầy lá vàng ngày xưa không còn. Thay vào đấy là một quán bốn tầng sáng choang gương kính và ánh điện màu. Nhưng được cái là vẫn mang tên "Lá Thu cà phê".

Tôi bước vào. Một mình một bàn. Một cô tiếp viên có đôi chân trần trắng muốt mũm mĩm mang chai rượu đắt tiền đến. Tôi hỏi tên người chủ quán cà phê ngày xưa. Cô dẫn tôi lên lầu. Một căn phòng nội thất phương Đông cổ. Cô dẫn tôi lên lầu. Một ông già râu tóc bạc đang ngồi uống trà bên giò lan tím cạnh song cửa. Đôi mắt sau tròng kính chớp chớp, ông nhận ra tôi, vồ vập thân tình.

- Những bức tranh ngày xưa còn không, thưa ông - Tôi nhìn suốt lượt bức tường.

- Không... Ông lắc đầu.

- Chúng đâu rồi?

- Chúng đã biến thành toà nhà nhiều gương kính này.

- Ông có nghĩ thế là với sự biến đổi, ông đã gặp thời, gặp vận, may mắn không?

- Không hẳn thế.

Ông già đưa tôi chén trà ngâu thơm ngát. Tôi bâng khuâng chạnh nhớ mùi cà phê trong cái quán nghèo thuở nào.

- Người hoạ sĩ tài hoa xưa còn đến đây?

- Không. Ông ấy đã mất trước khi được thấy tranh của mình bán được nhiều tiền...

Đêm ấy uống hết nửa chai rượu do cô tiếp viên xinh đẹp nâng tận môi, tôi loạng choạng đứng dậy ra về.

Ông chủ quán tiễn ra cửa, cầm tay hỏi:

- Tôi nghĩ là cậu buồn, và có giận tôi không?

Tôi mơ hồ lắc đầu:

- Không hẳn thế!

**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

23.
Người đàn bà khoanh tay mỉm cười
Nguyễn Phan Hách


Một buổi chiều, họa sĩ Khang dừng chân bên dãy đồi thong non có ngôi nhà nhỏ chơ vơ nhỏ xíu nơi đầu suối giữa trời đất mênh mang.

Khang đẩy cánh cổng tre nhìn mảnh sân đơn côi ngằm ngặp nắng vàng, đàn gà lích chích mổ tấm.

Khang quyết định sẽ trọ lại đây, sau nửa tháng lang thang các triền đồi trung du. Anh vừa bắt gặp cảm hứng.

Người đàn bà từ trong khuôn cửa trúc óng vàng bước ra ngỡ ngàng. Chị là chủ nhà, ở đây một mình và dãy đồi thong non bát ngát kia là của chị. Chị đã trồng nó ròng rã mỗi ngày một ít từ 20 năm nay, để thành rừng cây bây giờ. Rừng là vườn nhà của chị. Hàng ngày chị chăm sóc cho rừng khép tán và trồng thêm nữa, thêm mãi cho kín tất cả dãy đồi trọc mênh mang này. Chị trồng cho đến hết đời chị và rồi nấm mồ chị sẽ đặt giữa đỉnh đồi thông kia.

Họa sĩ Khang vẽ chân dung chị. Anh đã phải dùng màu sương mai để tô mái tóc. Dùng màu thời gian, màu cô đơn, màu nỗi buồn, màu tuyết trinh vĩnh cửu để thể hiện gương mặt chị.

Chị ngồi đó trắng trong như ngọn suối cửa nhà, bông hoa hồng bạch đẫm sương cầm tay, ánh mắt thăm thẳm trập trùng như rừng thông biếc.

- Anh cứ ở lại đây, vẽ xong tranh hãy về. Tôi sẽ bắt cá suối nấu canh rau sắng anh ăn.

- Cá suối nấu với mướp hương ngon hơn chị ạ - Khang chỉ những giàn mướp um tùm bờ dậu

Anh bỗng giật mình. Sao mướp xanh tốt thế mà chỉ toàn lá? Cấm có một quả nào!

- Nhà không có đàn ông đến cây cũng không ra quả - Chị mỉm cười, đùa vui.

Những người đàn ông, nhiều đàn ông lắm, thưở xưa họ đến vùn đồi này tập trận. Ngày ấy chị là cô gái 18 tuồi mới đến đây và trồng những cây thông non bé như những ngón tay dưới trời nắng chang chang. Mỗi cây trồng xuống, chị cứ mỉm cười một mình, tự đếm ứng với một người lính. Và khi cả rừng thông cao vượt đầu người, mọc tua tủa dãy đồi, chị giật mình trông thấy giống y như cả sư đoàn khoác lá ngụy trang triển khai tập trận. Ngày ấy chị 18 tuồi, giữa một rừng đàn ông.

Cuộc chiến tranh giữ nước kết thúc lâu rồi. Rừng thông đã khép tán trập trùng, nhưng không có người lính nào về đây với chị. Họ trở lại các làng quê của họ, hay ở lại các thành phố nơi họ giải phóng. Và một số người đã ngã xuống. Phải. Đã ngã xuống. Vì thế nên chị ở lại đây mãi. Một mình.

Họa sĩ Khang nhặt các mảnh sành cắm vào các gốc mướp xanh mập. Anh nhớ lại hồi bé ở quê, bà nội vẫn làm như thế. Những mảnh vỡ sắc nhọn, cứa chích thế nào đó, dàn mướp lở thì bỗng dưng kết quả.

Ít ngày sau khi Khang đi, ngôi nhà của người đàn bà phủ rợp hoa vàng tối mắt, ong đen dập dìu bay lượn. Rồi những trái mướp treo trĩu trịt. Đứng trước hiên, chị khoanh tay, mỉm cười.


**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân

24.
Kẻ cắp
Đức Hải


Nghe tiếng Mẹ gọi dậy , nó vùng khỏi chiếc chăn ấm ... sáng nào cũng vậy. Cứ 5 giờ sáng nó phải dậy phụ giúp mẹ bán bánh. Mùa hè thì chẳng sao chứ mùa đông, quả là khó khăn. Một hôm, đang lúc bận rộn bán hàng, chợt có tiếng nói:

- Ô ... kìa con chó lấy ổ bánh mì!

Con chó kẻ cắp mồm ngậm bánh đang chạy rất nhanh, có đuổi cũng không kịp. Đến giờ học, nó vội tới trường và cũng quên luôn chuyện lúc sáng.

Nhưng mấy hôm nay, ngày nào cũng mất đi một chiếc bánh mì, nó cho rằng thủ phạm chính là con chó lạ đó, phải cho nó một trận mới hả giận, nhưng mẹ nó lại bảo:

- Thôi con ạ! chắc nó bị bỏ đói, ta cho nó vậy.

Nó không đồng ý và quyết định cho con Vàng to khỏe, đẹp mã và nổi tiếng khôn ngoan của nó trừng trị. Quả nhiên sáng ấy đang lúc còn ngái ngủ bởi còn thưa khách hàng, nó giật mình nghe tiếng sủa rất to của con Vàng và vút một cái, nó xô tới con chó kẻ cắp đang tiến tới thùng bánh. Con chó lạ gầy nhom sợ quá quay đầu co cẳng chạy bạt mạng. Không hiểu sao, con Vàng đuổi theo một đọan, sủa lên rất to rồi quay lại. Có lẻ nó thương hại!

Chủ nhật được nghĩ học, nó nảy ra ý định theo dõi xem con chó đó của nhà ai. Nó bắt đầu sốt ruột thì con chó lạ xuất hiện. Nó vội vàng lấy chiếc bánh. Nó và con Vàng nhẹ nhàng bám theo. Qua một dãy phố đến chân cầu thang của một tiệm bách hóa, con chó lạ dừng lại trước một thằng bé còm nhom rách rưới, vẻ mặt bơ phờ, đang run rẩy vì lạnh. Chỉ nhìn là biết nó không nhà và đang bị ốm. Con chó lạ thả cái bánh vào tay chủ, đứa bé ăn một miếng lại bẻ một ít cho chó. Mải nhìn nên con Vàng chạy xô tới chỗ đó mà nó không kịp giữ lại. Thấy con Vàng, con chó lạ gầm gừ nhưng thằng bé quát im đi rồi bẻ miếng bánh cho con Vàng, Vàng ngửi ngửi, lưỡng lự, thằng bé lại tung miếng bánh nữa và gắng mỉm cười:

- Ăn đi mày, tao chỉ có vậy thôi.

Thấy chủ tỏ vẻ thân thiện, con chó kẻ cắp cũng lại gần ngửi ngửi làm quen. Lát sau, hai con chó đã vui vẻ tranh nhau những miếng bánh mà thằng bé tung lên. Chúng ta đã là bạn của nhau thật rồi!

Trông cảnh tượng đó mắt nó bỗng cay xè...


**********

saudong

saudong
Bạn Thân
Bạn Thân


25.
Ngậm hoa
Phan Triều Hải


Hà nói: “Sang qua cành kia”. Đó là một cành lá rậm rịt, kiến bò lúc nhúc thành từng vệt dài, đen thẫm. Những con kiến cần cù quen thuộc, những cái lưng khom khom, cần mẫn. Hà đếm đi đếm lại những chùm xoài mũm mĩm lăn lóc trên thềm rồi la lên: “Còn thiếu một trái nữa”. Tôi vươn ra cái cành cô vừa chỉ. Có cả một lũ xoài con túm tụm ở đó. Tôi lựa một trái ít xanh xao nhất, thả xuống. Hà nói to: “Đủ!”. Chân tôi vướng phải một nhành cây con vắt ngang, được dính vào thân xoài vạm vỡ bằng một bông hoa trắng muốt. Hoa trang. Tôi ngắt bông hoa đó, ngậm lấy và tụt xuống như một con tắc kè. Có lần tôi đã nghĩ, người ta có thể đổi màu cho hợp với đời sống, nhưng có lẽ sẽ không ai có thể có lại được cái màu trắng ngần của bông hoa trang này. Không bao giờ.

Hà là người yêu mới của tôi. Cô không xinh, nhưng ngây thơ vừa đủ để tôi có thể yên tâm buông thả mình. Hà phủi những vụn tàn cây lá đậu trên lưng tôi, dịu dàng bảo: “Anh đi tắm đi”. Tôi cẩn thận đặt đóa hoa lên bàn cô. Nó lăn một vòng quanh cái cuống con như con vụ gỗ rồi dừng lại ở mép bàn. Tôi ra sau nhà. Trong thùng sắt, nước lạnh và có mùi rỉ sét. Tôi dội nước, thấy mình được dẫn dắt qua một thế giới khác, khác hẳn nơi tôi đang tồn tại đây với con đường đất đỏ đầy bụi lẫn nắng chạy ngang nhà và không còn muốn nghĩ ngợi gì nữa.

Tôi ngồi xếp bằng tròn trên cái sập gỗ sứt mẻ, thái xoài thành từng miếng mỏng. Hà chải đầu cho tôi nói: “Như rễ tre”, rồi ra lệnh: “Quay lại”. Tôi quay lại, thấy khuôn mặt cô thật gần. Mũi tôi dài quá và vướng víu. Hà giằng ra: “Anh làm em ngạt thở mất”. Tôi mím môi lại, thấy mình vẫn là mình như mọi lần, dày dạn và tỉnh táo.

Hà đứng bên cửa sổ, nhìn ra cánh cổng già nua có đeo trễ nãi bên hông hộp thư bằng gỗ. Những lá thư tình điêu luyện của tôi sẽ được thả vào đó mỗi tuần, khi bóc ra hẳn chúng vẫn còn mùi ẩm mục. Không biết số phận những lá thư khác của tôi ra sao. Tôi không kiểm soát nổi chúng cũng như vẫn thường xuyên bất lực với tình cảm của mình.

Hà quay lại bên tôi, đôi môi chúm chím ngậm cánh hoa mỏng dính như một cánh tăm: “Có vị ngọt” – cô nói, đưa cho tôi những cánh hoa còn lại. Tôi nhận lấy, chạm nhẹ chúng vào đầu lưỡi. Hà vòng tay quanh cổ tôi, thì thầm: “Hãy nói yêu em đi!”. Tôi không trả lời được. Tôi chợt nhận ra rằng, tôi không có quyền trả lời cho những câu hỏi như vậy nữa. Mùi vị của hoa khiến tôi đờ đẫn. Cái vị ngọt tinh khiết, lãng đãng, hư hư thực thực ấy hình như tôi đã được nhận ở đâu đó một lần, duy nhất một lần trong đời.

**********

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 5 trang]

Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4, 5  Next

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết