Ai rằng ông dại với ông điên Ông dại sao ông biết lấy tiền Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp Nẹt thằng mặt trắng lấy tam nguyên Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ Phép nước xin chừa móng lợn đen Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen
Ông chẳng hay ông tuổi đã già Năm nhăm ông cũng lão đây mà Anh em làng xóm xin mời cả Xôi bánh trâu heo cũng gọi là Chú Đáo bên người lên với tớ Ông Từ xóm chợ lại cùng ta Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ Có rượu thời ông chống gậy ra
Biếng trông trời hạ nước non xưa Ý khí ngày thường nghĩ đã trơ Cá vượt khóm rau lên mặt nước Bướm lên lá trúc lượn rèm thưa Thơ Đào 146 cửa miệng đưa câu rượu Xóm Liễu quanh khe chịu tiếng khà Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Sấm đông rầm rập gió nồm đưa
Mừng ta con cái thực tài lo Nhà dẫu không to thế cũng to Mực thước vuông tròn sau cửa thánh Lửa hương ngào ngạt trước làng nho Chim oanh đường cũ đương bay nhảy Chồi quế sân trong muốn thập thò Con có cha như nhà có nóc Được giờ cất nóc tớ lên cho
Ngần ấy năm nay vẫn ở nhà Nghĩ ta ta lại chỉ thương ta Bóng hiên thềm ngán hơi đồng nhỉ Ngọn gió không nhường tóc bạc a Thửa mạ rạch ròi chân xấu tốt Đấu lương đo đắn tuổi non già Khi buồn chén rượu say không biết Ngửa mắt lờ mờ ngọn núi xa
Năm gian lều cỏ thấp le te Ngõ tối đêm khuya đốm lập lòe Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt Làn ao lóng lánh bóng trăng loe Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy Độ năm ba chén đã say nhè
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió sẻ đưa vèo Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Tựa gối buông cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu Nước biếc coi như tầng khói phủ Song thu đế mặc bóng trăng vào Năm chùm trước giậu hoa năm ngoái Một tiếng trên không ngỗng nước nào Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ỏng Đào 147
Lâu nay không gặp ngỡ xa đàng Ai biết rằng ra giữ mò làng In sáo vẽ cho thằng mặt trắng Bẻ cò tính lại cái lương vàng Chuyện đời hãy đắp tai cài trốc Lộc thánh đừng lừa nạc bỏ xương Cũng muốn ra chơi chơi chửa được Gió thu hiu hắt đượm màu sương
Kiều nhi giấc mộng bặt như cười Tỉnh dậy xuân xanh quá nửa rồi Số kiếp bởi đâu mà lận đận Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi Cành hoa vườn Thúy duyên còn bén Ngọn nước sông Tiền nợ chửa xuôi Không trách chàng Kim đeo đẳng mãi Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi
Ví chẳng đua chơi hội Đạp thanh Làm sao mang lấy nợ ba sinh Kẻ còn người khuất hai hàng lệ Trước lạ sau quen một chữ tình Nghĩ đến suối vàng thương phận bạc Nỡ đem lá thắm phụ xuân xanh Trong khuôn tài sắc trời hay ghét Trăng gió xưa nay chẳng một mình
Thằng bán tơ kia giở giói ra Làm cho bận đến cụ Viên già 148 Muốn êm phải biện ba trăm lạng Khéo xếp nên liều một chiếc thoa Đón khách mượn màu son phấn mụ Bán mình chuộc lấy tội tình cha Có tiền việc ấy mà xong nhỉ Đời trước làm quan cũng thế a
..............
148. Tác giả làm bài thơ này và mấy bài "Vịnh Kiều” khác nữa là nhân dịp tuần phủ Lê Hoan ở Hưng Yên mời đến làm giám khảo cùng với cụ Dương Khuê cho một cuộc thi thơ “Đề Thanh tân tài nhân”. Do đó với hai câu đầu trên đâyngười ta nghĩ rằng tác giá đã dụng tâm mắng xỏ Lê Hoan
Chị Hoạn ghen tuông khéo dở đời Cơ duyên lỏng lẻo buộc chân người Cánh buồm mặt bể vừa êm sóng Vó ký chân đèo bỗng đến nơi Con ở ngẩn ngơ nhìn mặt chủ Nhà thầy tưng hửng mất đồ chơi Ông trời rõ khéo chua cay nhỉ Một cuộc bày ra cũng nực cười
Rõ nền phú quý bậc tài danh Lần bước hài văn bước dặm xanh Trên gác Quan âm mây phủ tán Trước lầu Ngưng bích gió lay mành Khen tài nhả ngọc thơ lưng túi Sánh giọng quỳnh tương rượu một bình Gặp hội trường văn xuân bảng chiếm Làm cho đổ quán lại xiêu đình
Ôm từ gối mõ ngáy khò khò Gió lọt buồng thiền mát mẻ cô Then cửa từ bi cài lỏng chốt Nén hương tế độ đốt đầy lò Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác Chim núi nghe kinh cổ gật gù Nhắn bảo chúng sinh như muốn độ Sẽ quỳ sẽ niệm sẽ nam mô
Tri âm xin tỏ với tri âm Một tỉnh tình tinh miệng lỡ lầm Nhấp nhoáng hạt trai ngờ hổ phách Mơ màng núc nác ngờ vàng tâm Bắn tin bướm nhạn hoa còn đỏ Nghe nói vườn xuân sắc đã thâm Nhắn nhủ bà hàng đừng đóng ghế Bầu non kia đã phải ong châm
Có khách cho ta một chậu trà Đương say ta chẳng biết rằng hoa Da mồi tóc bạc ta già nhỉ Áo tía đai vàng bác đấy a Mưa nhỏ những khinh phường xỏ lá Gió to luống sợ lũ dơi già Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi Đếch thấy hơi hương một tiếng khà
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai Cũng gọi ông Nghè có kém ai Mảnh giấy làm nên khoa giáp bảng Nét son điểm rõ mặt vân khôi Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ Cái giá khoa danh ấy mới hời Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi
* * *
Rõ chú hoa man 149 khéo vẽ trò Bỡn ông mà lại dứ thằng cu Mày râu mặt đó chừng bao tuổi Giấy má nhà bay đáng mấy xu Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu Hỏi ai muốn ước cho con cháu Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu
................
149. Hoa man là người làm những vật bằng giấy tục gọi là người thợ mã.
Ai đi Hương Tích chợ trời đi Chợ họp quanh năm cả bốn thì Đổi chác người tiên cùng khách bụt Họp hàng gió chị lại trăng dì Yến anh chào khách nhà mây tỏa Hoa cỏ bày hàng điếm cỏ che Giá áo lợn tằm tiền gạo đủ Bán mua mặc ý muốn chi chi
Quai Mễ 150 Thanh Liêm đã lở rồi Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi Gạo năm ba bát cơ còn kém Thuế một hai nguyên dáng chửa đòi Tiếng sáo ve ve chiều nước vọng Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi Đi đâu cũng thấy người ta nói Mười chín năm nay lại cát bồi
..............
150. Quai đê ở làng Mễ Trì huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam.
Ai lên nhắn hỏi bác Châu cầu 151 Lụt lội năm nay bác ở đâu Mấy ổ lợn con rày lớn bé Vài gian nếp cái ngập nông sâu Phận thua suy tính càng thêm thiệt Tuổi cả chơi bời họa sống lâu Em cũng chẳng no mà chẳng đói Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu
.................
151. Ông tiến sĩ Bùi Quế ở làng Châu Cầu huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam
Kim lan từ thuở nhỏ chơi bời Đôi lứa như ta được mấy người Trời hẹn ngày cho ba vạn sáu Ta chung tuổi mới một trăm hai Kẻ già nét bút chăm cùng trẻ Người khỏe tay đao độ lấy đời Từ trước bảng vàng nhà sẵn có Chẳng qua trong bác với ngoài tôi
Đã bấy lâu nay bác tới nhà Trẻ thì đi vắng chợ thời xa Ao sâu sóng cả khôn chài cá Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà Cải chửa ra cây cà chửa nụ Bầu vừa rụng rốn mướp đương hoa Đầu trò tiếp khách trầu không có Bác đến chơi đây ta với ta
Năm nay cầy cấy vẫn chưa thua Chiêm mất đàng chiêm mùa mất mùa Phần thuế quan thu phần trả nợ Nửa công đứa ở nửa thuê bò Sớm trưa dưa muối cho qua bữa Chợ búa trầu cau chẳng dám mua Tần tiện thế mà sao chửa khá Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho
Nghĩ chuyện trần gian cũng nực cười Trời khôn hơn vợ vợ hơn trời Khôn đến mẹ mày là có một Khéo như con Tạo cũng là hai Trời dẫu yêu vì nhưng có phận Vợ mà vụng dại đếch ăn ai Cớ sao vợ lại hơn trời nhỉ Vợ chỉ hơn trời có cái trai 152
...............
152. Bài này thất niêm giữa đoạn trên và đoạn dưới.