You are not connected. Please login or register

Truyện Kiều - Nguyễn Du

2 posters

Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3  Next

Go down  Thông điệp [Trang 2 trong tổng số 3 trang]

26Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:46 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

1565./ Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói cười như không.
Đêm ngày lòng những dặn lòng,
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
1570./ Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
Tẩy trần vui chén thong dong,
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
1575./ Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
Những là e ấp dùng dằng,
1580./ Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
Có khi vui chuyện mua cười,
Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu.
Rằng: "Trong ngọc đá vàng thau,
"Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
1585./ "Khen cho những miệng dông dài,
"Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
"Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
"Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!"
Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
1590./ Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
Những là cười phấn cợt son,
Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai.
Thú quê thuần vược bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
1595./ Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.
Tình riêng chưa dám rỉ răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
"Cách năm mây bạc xa xa,
1600./ "Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn."
Được lời như mở tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
1605./ Roi câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng: "Ngứa ghẻ hờn ghen,
1610./ "Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
"Vậy nên ngoảnh mặt làm thinh,
"Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
"Lâm Truy đường bộ tháng chầy,
"Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
1615./ "Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
"Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
"Làm cho cho mệt cho mê,
"Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
"Trước cho bõ ghét những người,
1620./ "Sau cho để một trò cười về sau."
Phu nhân khen chước rất mầu,
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển Ưng lại chọn một bầy côn quang.
1625./ Dặn dò hết các mọi đường,
Thuận phong một lá vượt sang biển Tề.



Chú giải:

1568. Lầu hồng: Do chữ hồng lâu, nhà ở bọn quyền quý, cũng dùng để chỉ chỗ ở của hạng phụ nữ giàu sang.
1571. Tẩy trần: Rửa bụi. Tục xưa, khi có người đi xa về thì đặt tiệc "tẩy trần", ý nói rửa sạch bụi bặm trong lúc đi đường.
1578. Khảo: Tra khảo.
1580. Rút dây động rừng: Tục ngữ, ý nói rút một sợi dây làm rung chuyển đến cả một khu rừng. Câu này ý nói: Thúc sinh sợ nói lộ câu chuyện lấy Kiều ra sẽ gây nên sóng gió trong gia đình.
1583-1584: Đại ý nói ngọc hay đá, vàng hay thau đôi ta đều đã biết phân biệt rạch ròi, không thể nào lầm lẫn được.
1594. Cổ thi: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cọng tri thu: (chỉ một lá ngô đồng rụng mà ai cũng biết là thu sang). Câu này đại ý nói: Thúc sinh ở quê nhà vừa bén mùi rau cá thì trời đã bắt đầu sang thu.
1596. Quan tái: cũng như quan ải, chỉ nơi núi non bờ cõi.
1599. Mây bạc: Do chữ bạch vân mà ra. Địch Nhân Kiệt đời Đường đi làm quan xa, thường chỉ đám mây trên núi Thái Hàng mà nói: "Nhà cha mẹ ta ở đây". Ở đây dùng để nói Thúc sinh có cha ở xa.
1606. Xe hương: Do chữ Hương xa, chỉ xe của phụ nữ.
Quy ninh là về hỏi thăm sức khoẻ của cha mẹ.
1609. Thành ngữ: Ngứa ghẻ hờn ghen ý nói hai điều khó chịu nhất.
1614. Hải đạo: Đường biển.
1621. Mầu: Mầu nhiệm. Mẹ Hoạn thư khen cái mưu ấy rất diệu, rất hay.
1623. Buồm: Lá buồm. Lèo: dây treo buồm.
1624. Khuyển: chó, Ưng: chim cắt, hai loài vật dùng để đi săn. Ở đây dùng để đặt tên cho bọn tôi tớ trung thành của họ Hoạn.
Côn quang: Cũng như côn đồ, dùng để chỉ bọn vô lại.
1626. Thuận phong: Thuận gió. Một lá: Một lá buồm, Kiều lúc ấy đang ở Lâm Truy, Lâm Truy nguyên là kinh đô nước Tề xưa, nên gọi là biển Tề.

27Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:47 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Nàng từ chiếc bóng song the,
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
Bóng dâu đã xế ngang đầu,
1630./ Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm ngang vai,
Nào lời non nước nào lời sắt son.
Sắn bìm chút phận cỏn con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
1635./ Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.
Nén hương đến trước Phật đài,
1640./ Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra.
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
1645./ Thuốc mê đâu đã tưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
Sẵn thây vô chủ bên sông,
1650./ Đem vào để đó lộn sòng ai hay?
Tôi đòi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
1655./ Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
Gió cao ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
1660./ Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
Ngay tình ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại có bàn rằng ai!
1665./ Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
Di hài nhặt sắp về nhà,
Nào là khâm liệm nào là tang trai.
Lễ thường đã đủ một hai,
1670./ Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu thơ,
Tro than một đống nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha tới trung đường,
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
1675./ Hỡi ôi nói hết sự duyên,
Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan!
Gieo mình vật vã khóc than:
"Con người thế ấy thác oan thế này.
"Chắc rằng mai trúc lại vầy,
1680./ "Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
"Thương càng nghĩ nghĩ càng đau,
"Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây."
Gần miền nghe có một thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.
1685./ Trên tam đảo dưới cửu tuyền,
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
Sắm sanh lễ vật rước sang,
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
1690./ Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.
Trở về minh bạch nói tường:
"Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
"Người này nặng nghiệp oan gia,
"Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho!
1695./ "Mệnh cung đang mắc nạn to,
"Một năm nữa mới thăm dò được tin.
"Hai bên giáp mặt chiền chiền,
"Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!"
Nghe lời nói lạ đường này,
1700./ Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.



Chú giải:

1630. Ấm lạnh: Do chữ ôn sảnh (Đông ôn hạ sảnh), ngọt bùi do chữ cam chỉ, ý nói làm con phải quạt nồng ấm lạnh và phụng dưỡng những thức ngon lành cho cha mẹ.
1632. Lời non nước: Lời chỉ non thề biển. Lời sắt son: Lời trung thành vững chắc như sắt như son.
1633. Sắn bìm: Do chữ cát đằng mà ra. Xem chú thích 902.
1636. Cung Quảng: Cung Quảng Hàn trong mặt trăng, ả Hằng tức ả Hằng Nga trong cung. Hằng Nga là vợ Hậu Nghệ, trộm thuốc trường sinh của chồng rồi chạy lên ở một mình trên cung trăng; Câu này đại ý nói: Thôi thì liều sống một mình như Hằng Nga trong cung Quảng Hàn vậy.
1638. Ba sao: Do chữ Kinh Thi: Tam tinh tại thiên (ba sao ở trời). Ở đây tác giả chỉ mượn câu ấy để nói đêm đó ngoài song gió thổi, giữa trời có trăng có sao v.v...
1642. Khốc quỷ kinh thần: Quỷ thần khóc, thần phải sợ, ý nói rất ghê sợ.
1667. Di hài: Hài cốt sót lại.
1668. Khâm liệm: Lễ mặc quần áo mới và bọc vải lụa cho người chết trước khi bỏ vào áo quan. Tang trai: Lễ đưa ma và làm chay.
1670. Lục trình: Đi đường bộ.
1673. Trung đường: Nhà chính giữa.
1674. Linh sàng: Giường thờ.
Bài vị: Mảnh gỗ viết tên người chết để thờ.
1680. Vĩnh quyết: Cũng như vĩnh biệt, từ biệt hẳn, không bao giờ gặp nhau nữa.
1684. Phi phù trí quỷ: đốt bùa mà gọi được quỷ đến.
Thông huyền: Thông cảm được với cõi huyền bí, tức cõi quỷ thần.
1685. Tam đảo: Ba đảo tiên: Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Người ta thường dùng để chỉ cõi thiêng liêng hoặc cõi tiên.
Cửu tuyền: Chín suối, tức là âm phủ.
1689. Đạo nhân: cũng như đạo sĩ, chỉ ông thầy pháp.
Tĩnh đàn: Đàn thờ thần thánh của bọn thầy pháp.
1690. Xuất thần: Linh hồn thầy pháp thoát ra ngoài thể xác để đi vào cõi thần linh.
1695. Mệnh cung: Cung là bản mệnh, một trong 12 cung của số Tử vi. Sách số có câu: Cung mệnh mà có sao Bột chiếu vào thì người ấy mắc nạn. Câu này đại ý nói: Xem số Thúy Kiều thì đang mắc nạn to.
1697. Chiền chiền: Tiếng cổ, có nghĩa là rành rành, hoặc liền liền.
1701. Đồng cốt: Ông đồng, bà cốt, những người làm nghề câu đồng, câu bóng.

28Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:47 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

1705./ Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.
Khuyển ưng đã đắt mưu gian,
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền,
1710./ Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
Giã đò lên trước sảnh đường,
Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
Vực nàng tạm xuống môn phòng,
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
1715./ Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,
Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
Bàng hoàng giở tỉnh giở say,
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.
Ả hoàn trên dưới giục mau,
1720./ Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
Ngước trông tòa rộng dãy dài,
“Thiên quan trủng tể” có bài treo trên.
Ban ngày sáp thắp hai bên,
Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.
1725./ Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa.
Bất tình nổi trận mây mưa,
Mắng rằng: "Những giống bơ thờ quen thân!
"Con này chẳng phải thiện nhân,
1730./ "Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
"Ra tuồng mèo mả gà đồng,
"Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
"Đã đem mình bán cửa tao,
"Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.
1735./ "Nào là gia pháp nọ bay!
"Hãy cho ba chục biết tay một lần."
Ả hoàn trên dưới dạ rân,
Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào.
Trúc côn ra sức đập vào,
1740./ Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.
Xót thay đào lý một cành,
Một phen mưa gió tan tành một phen.
Hoa nô truyền dạy đổi tên,
Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.
1745./ Ra vào theo lũ thanh y,
Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
Quản gia có một mụ nào,
Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
Khi chè chén khi thuốc thang,
1750./ Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.
Dạy rằng: "May rủi đã đành,
"Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
"Cũng là oan nghiệp chi đây,
"Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
1755./ "Ở đây tai vách mạch rừng,
"Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
"Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
"Con ong cái kiến kêu gì được oan?"
Nàng càng giọt ngọc như chan,
1760./ Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây:
"Phong trần kiếp chịu đã đầy,
"Lầm than lại có thứ này bằng hai.
"Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
"Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.
1765./ "Đã đành túc trái tiền oan,
"Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi."
Những là nương náu qua thì,
Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
Mẹ con trò chuyện lân la,
1770./ Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
"Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
"Cho về bên ấy theo đòi lầu trang."
Lãnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu.
1775./ Sớm khuya khăn mặt lược đầu,
Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
1780./ Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
Cửa người đày đọa chút thân,
Sớm năn nỉ bóng đêm ân hận lòng.
1785./ Lâm Truy chút nghĩa đèo bồng,
Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.
Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
Lần lần tháng trọn ngày qua,
1790./ Nỗi gần nào biết đường xa thế này.



Chú giải:

1709. Cánh suyền: Cánh buồm đi nhanh.
1715. Hoàng Lương: Kê vàng. Xưa Lư sinh đời Đường đi thi gặp ông già họ Lã cho mượn cái gối nằm ngủ. Chàng mơ thấy mình thi đỗ, làm quan vinh hoa phú quý hơn 20 năm. Lúc tỉnh giấc thì nồi kê của nhà hàng nấu chưa chín. Người sau bèn dùng hai chữ hoàng lương để chỉ giấc mơ.
Hồn mai: Xưa có người gặp cô gái trong rừng, cùng uống rượu, sáng dậy thấy mình nằm dưới gốc cây mai. Đây chỉ có ý nói là giấc mơ màng.
1719. Ả hoàn: các đầy tớ gái trẻ tuổi.
1722. Thiên quang trủng tể: Thiên quan là loại quan đứng đầu sáu lại quan do nhà Chu đặt ra. Trủng tể tức là chức tể tướng.
1724. Thất bảo: Bảy sản vật quý như vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, trân châu. Ở đây chỉ cái giường có khảm các vật quý.
1731. Mèo mả gà đồng: Mèo hoang sống ở mồ mả; gà hoang sống ở ngoài đồng, người ta thường dùng để ví với hạng người lông bông, giang hồ.
1735. Gia pháp: Phép tắc trong nhà để trừng phạt gia nhân và tôi tớ.
1739. Trúc côn: Gậy tre.
1741. Đào lý: Cây đào, cây lý, thường dùng để chỉ phụ nữ.
1744. Phiên thị tỳ: Thị tỳ ở nhà quyền quý rất nhiều, chia ra từng ban và từng phiên mà hầu hạ, nên gọi là phiên thị tỳ.
1745. Thanh y: áo xanh. Đầy tớ gái các nhà giàu sang đời xưa đều mặc áo xanh, nên gọi là thanh y.
1747. Quản gia: Trong gia đình quan lại phong kiến đời xưa thường dùng những người đàn bà đứng tuổi trông coi việc nhà và cai quản số hầu gái, gọi là quản gia.
1750. Phương tiện: ở đây có nghĩa là đối đãi, xử trí mọi việc.
Hiếu sinh: Quí trọng sinh mệnh, ý nói tránh cho người ta con đường khổ sở chết chóc.
1752. Liễu và bồ là hai giống cây mềm yếu thường được dùng để chỉ phụ nữ.
1753. Oan nghiệp: Tiền oan, nghiệp chướng, có ý nói có oan thù và tội lỗi từ thời trước để lại.
1755. Tai vách mạch rừng: Do câu thành ngữ: Rừng có mạch vách có tai.
1761. Phong trần: Nghĩa đen là gió bụi, thường được dùng để chỉ sự khổ sở mà người đời phải chịu.
1765. Túc trái tiền oan: Nợ nần, oán thù từ kiếp trước để lại.
1774. Địa ngục, thiên đường: Theo giáo lý đạo Phật thì những người độc ác sau khi chết phải xuống địa ngục để chịu tội, còn hồn những người lương thiện thì được lên thiên đường. Ở đây ý nói nơi khổ ải và nơi sung sướng.
1778. Trúc tơ: Do chữ ty trúc: ty là tơ để làm dây đàn, trúc là tre để làm ống sáo. Hai chữ này thường được dùng để chỉ các thứ âm nhạc nói chung.
1786. Tương phùng: Gặp nhau. Câu này ý nói: Thúy Kiều nghĩ rằng tình nghĩa giữa mình với Thúc Sinh muốn nối lại thì hoạ chăng chỉ ở kiếp khác.
1787. Ý nói: Thuý Kiều trông ra bốn bể thì thấy đâu cũng man mác một màu mây trắng mà không thấy quê nhà.
1788. Cố quốc: Nguyên nghĩa là nước cũ, sau cũng dùng như chữ cố hương (quê cũ).

29Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:48 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Lâm Truy từ thuở uyên bay,
Phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
Mày ai trăng mới in ngần,
Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa.
1795./ Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
1800./ Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
Tiểu thư đón cửa giã giề,
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
Nhà hương cao cuốn bức là,
Phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
1805./ Bước ra một bước một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
"Phải rằng nắng quáng đèn lòa,
"Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
"Bây giờ tình mới tỏ tình,
1810./ "Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
"Chước đâu có chước lạ đời?
"Người đâu mà lại có người tinh ma?
"Rõ ràng thật lứa đôi ta,
"Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
1815./ "Bề ngoài thơn thớt nói cười,
"Mà trong nham hiểm giết người không dao.
"Bây giờ đất thấp trời cao,
"Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?"
Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
1820./ Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
Sinh đà phách lạc hồn xiêu:
"Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây?
1825./ "Nhân làm sao đến thế này?
"Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!"
Sợ quen dám hở ra lời,
Khôn ngăn giọt nước sụt sùi nhỏ sa.
Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
1830./ "Mới về có việc chi mà động dong?"
Sinh rằng: "Hiếu phục vừa xong,
"Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên."
Khen rằng: "Hiếu tử đã nên!
"Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu."
1835./ Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay.
Sinh càng như dại như ngây,
1840./ Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
Ngoảnh đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã dạm bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét: "Con Hoa!
"Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn."
1845./ Sinh càng nát ruột tan hồn,
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
Tiểu thư cười nói tỉnh say,
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
Rằng: "Hoa nô đủ mọi tài,
1850./ "Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe."
Nàng đà tán hoán tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
1855./ Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
Tiểu thư lại thét lấy nàng:
1860./ "Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi?
"Sao chẳng biết ý tứ gì?
"Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi."
Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
1865./ Giọt rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm.
Lòng riêng tấp tểnh mừng thầm:
"Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay."
Sinh thì gan héo ruột đầy,
1870./ Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.



Chú giải:

1791. Uyên: do chữ uyên ương, giống chim ở với nhau từng đôi, nên người ta thường dùng để chỉ vợ chồng. Uyên bay: ý nói Thuý Kiều không còn nữa (con chim uyên đã bay mất).
1793. Trăng mới: Trăng đầu tháng. Câu nói đại ý nói: Thúc sinh trông thấy mặt trăng lưỡi liềm đầu tháng giống như lông mày người gái đẹp mà tưởng nhớ đến Kiều.
1794. Câu này đại ý nói: Thúy Kiều không còn nữa. Thúc Sinh trông thấy phấn hương của nàng còn sót lại mà thương tâm.
1797. Cố nhân: Người quen biết cũ. Ở đây chỉ Thúy Kiều.
1799. Gia hương: Nhà và làng, tức quê nhà. Ở đây chỉ quê hương của Thúc Sinh ở huyện Vô Tích.
1803. Nhà hương: Do chữ Hương khuê.
1816. Thành ngữ: Giết người không dao, ở đây chỉ mưu mẹo nham hiểm.
1823. Phách lạc hồn xiêu: Do chữ hồn phi phách tán, ý nói sợ hãi một cách ghê gớm.
1830. Động dong: Biến đổi sắc mặt, ý nói động lòng.
1831. Hiếu phục: Tang trở cha mẹ. Ở đây chỉ Thúc Sinh vừa hết tang mẹ.
1832. [i]Trắc dĩ: Kinh thi[i] có câu [i]Trắc bỉ Dĩ hề, chiêm vọng mâu hề (lên núi Dĩ trông ngóng mẹ). Người sau bèn dùng hai chữ Trắc Dĩ để nói thương nhớ mẹ.
Chung thiên: Suốt đời, ý nói không bao giờ quên.
1833. Hiếu tử: Người con có hiếu với cha mẹ.
1834. Giải phiền: Làm cho khuây khoả sự phiền não.
1835. Thù: Chén rượu do chủ nhà rót mời khách.
Tạc: Chén rượu do khách rót cho người chủ để đáp lại. Ở đây nói vợ chồng Thúc Sinh uống rượu và mời mọc nhau.
1836. Trì hồ: Bưng bầu rượu. Ý nói bắt Kiều đứng hầu một bên để rót rượu cho hai vợ chồng Thúc Sinh uống.
1846. Bồ hòn để ám chỉ người có việc buồn khổ mà không nói ra được. Ở đây ý nói: chén rượu Kiều đưa mời chàng thấy đắng như bồ hòn, nhưng vì sợ Kiều bị liên luỵ phải uống hết ngay.
1856. Người ngoài: là người ngoài cuộc, chỉ Hoạn thư. Người trong: là người trong cuộc, chỉ Thúc sinh và Kiều.
1865. Giọt rồng: có nghĩa là thời giờ, thời khắc.
1866. Cam tâm: Thoả lòng, hả dạ.

30Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:48 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài
Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
1875./ Chước đâu rẽ thúy chia uyên,
Ai ra đường nấy ai nhìn được ai.
Bây giờ một vực một trời,
Hết điều khinh trọng hết lời thị phi.
Nhẹ như bấc nặng như chì,
1880./ Gỡ cho ra nợ còn gì là duyên?
Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
Một mình âm ỉ đêm chày,
Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.
1885./ Sớm khuya hầu hạ đài doanh,
Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
Lựa lời nàng mới thưa qua:
"Phải khi mình lại xót xa nỗi mình."
Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
1890./ "Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!"
Sinh đà rát ruột như bào,
Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
Những e lại lụy đến nàng,
Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.
1895./ Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
Thân cung nàng mới thảo qua một tờ.
Diện tiền trình với Tiểu thư,
Thoát xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc Sinh,
1900./ Rằng: "Tài nên trọng mà tình nên thương!
"Ví chăng có số giàu sang,
"Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
"Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
"Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!"
1905./ Sinh rằng: "Thật có như lời,
"Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
"Nghìn xưa âu cũng thế này,
"Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa."
Tiểu thư rằng: "Ý trong tờ,
1910./ "Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không.
"Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
"Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
"Sẵn Quan âm các vườn ta,
"Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.
1915./ "Có cổ thụ, có sơn hồ,
"Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh."
Tâng tâng trời mới bình minh,
Hương hoa ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.
Đưa nàng đến trước Phật đường,
1920./ Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia.
Áo xanh đổi lấy cà sa,
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
Sớm khuya tính đủ dầu đèn,
Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.
1925./ Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.
Nhân duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
1930./ Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.
Cho hay giọt nước cành dương,
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.



Chú giải:

1871. Loan phòng: Phòng nằm của đôi vợ chồng;
1875. Thúy: Chim thúy. Uyên: Chim uyên ương. Ở đây chỉ việc Hoạn Thư dùng mưu chia rẽ đôi lứa Thúc sinh và Thúy Kiều.
1885. Đài dinh: Đài các, dinh thự, chỉ chỗ ở của bọn quyền quý. Ở đây mượn để chỉ nhà ở của Thúc sinh và Hoạn thư.
1896. Thân cung: Cung khai, khai trình.
1897. Diện tiền: Trước mặt.
1910. Cửa Không: Do chữ Không môn. Vì đạo Phật cho mọi vật trên thế gian đều là "không" nên người ta gọi đạo Phật là "Không môn".
1913. Quan âm các: Cái chùa thờ Phật Quan thế âm Bồ tát. Đây là chùa riêng của nhà Hoạn Thư.
1915. Cổ thụ: Cây lâu năm.
Sơn hồ: Núi giả và hồ đào ra để làm cảnh.
1918. Ngũ cúng: Năm vật cúng Phật, tức hương, hoa, đăng, trà, quả.
1920. Tam quy: Ba lễ "qui y" tức quy y phật, quy y pháp, quy y tăng, nghĩa là đem cả tâm và thân mà theo đạo Phật.
Ngũ giới: Năm điều răn, tức là răn sát sinh, răn ăn rộm, răn tà dâm, răn nói càn, răn uống rượu.
Xuất gia: Ra khỏi nhà tức đi tu.
1921. Áo xanh: Thanh y, áo các hầu gái mặc.
Cà sa: áo nhà sư mặc.
1922. Pháp danh: Tên đặt theo tập tục tôn giáo. Trạc Tuyền là pháp danh do Hoạn thư đặt cho Kiều.
1924. Xuân, thu: Tên hai người đầy tớ gái do Hoạn thư sai đến Quan âm các ở với Kiều để giúp việc hương đèn.
1926. Rừng tía: Do chữ tư trúc lâm, chỗ ở của Phật Quan âm Bồ tát.
Bụi hồng: Do chữ hồng trần, tức cõi trần tục, cõi đời.
1927. Nhân duyên: Duyên vợ chồng. Ở đây chỉ duyên phận giữa Kiều và Thúc sinh.
1930. Thủ tự: Chữ viết tay.
Tâm hương: Hương lòng. Nén hương dân lên do tấm lòng thành kính.
1931. Giọt nước cành dương: Do chữ dương chi thủy. Theo sách Phật thì Phật Quan âm có cành dương liễu và bình nước cam lộ, khi muốn cứu ai thì lấy cành dương liễu dúng nước trong bình mà rảy vào người ấy. Ở đây giọt nước cành dương dùng để chỉ phép màu nhiệm của Phật.
1932. Lửa lòng: do chữ tâm hỏa, chỉ mọi thứ dục vòng do lòng người sinh ra.
Trần duyên: Duyên nợ ở cõi trần.

31Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:48 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Nâu sồng từ trở màu thiền,
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu,
1935./ Quan phòng then nhặt lưới mau,
Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người.
Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại gấp mười quan san.
Những là ngậm thở nuốt than,
1940./ Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà.
Thừa cơ, sinh mới lẻn ra,
Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.
Sụt sùi giở nỗi đoạn trường,
Giọt châu tầm tã đượm tràng áo xanh:
1945./ "Đã cam chịu bạc với tình,
"Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
"Thấp cơ thua trí đàn bà,
"Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
"Vì ta cho lụy đến người,
1950./ "Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!
"Quản chi lên thác xuống ghềnh,
"Cũng toan sống thác với tình cho xong.
"Tông đường chút chửa cam lòng,
"Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.
1955./ "Thẹn mình đá nát vàng phai,
"Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?"
Nàng rằng: "Chiếc bách sóng đào,
"Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
"Chút thân quằn quại vũng lầy,
1960./ "Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
"Cũng liều một giọt mưa rào,
"Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
"Xót vì cầm đã bén dây,
"Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.
1965./ "Liệu bài mở cửa cho ra,
"Ấy là tình nặng ấy là ân sâu!"
Sinh rằng: "Riêng tưởng bấy lâu,
"Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.
"Nữa khi giông tố phũ phàng,
1970./ "Thiệt riêng đấy cũng lại càng cực đây.
"Liệu mà xa chạy cao bay,
"Ái ân ta có ngần này mà thôi!
"Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
"Biết bao giờ lại nối lời nước non?
1975./ "Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
"Con tằm đến thác cũng còn vương tơ!"
Cùng nhau kể lể sau xưa,
Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.
Mặt trông tay chẳng nỡ rời,
1980./ Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.
Nhận ngừng, nuốt tủi, đứng ra,
Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.
Cười cười, nói nói ngọt ngào,
Hỏi: "Chàng mới ở chốn nào lại chơi?"
1985./ Dối quanh Sinh mới liệu lời:
"Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh."
Khen rằng: "Bút pháp đã tinh,
"So vào với thiếp Lan đình nào thua!
"Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
1990./ "Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!"
Thiền trà cạn nước hồng mai,
Thong dong nối gót thư trai cùng về.
Nàng càng e lệ ủ ê,
Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau.
1995./ Hoa rằng: "Bà đã đến lâu,
"Nhón chân đứng nép độ đâu nữa giờ.
"Rành rành kẽ tóc chân tơ,
"Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
"Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,
2000./ "Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
"Ngăn tôi đứng lại một bên,
"Chán tai rồi mới bước lên trên lầu."
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
"Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
2005./ "Ấy mới gan ấy mới tài,
"Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
"Người đâu sâu sắc nước đời,
"Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
"Thực tang bắt được dường này,
2010./ "Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
"Thế mà im chẳng đãi đằng,
"Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng!
"Giận dầu ra dạ thế thường,
"Cười này mới thực khôn lường hiểm sâu!
2015./ "Thân ta ta phải lo âu,
"Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!
"Ví chăng chắp cánh cao bay,
"Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!
"Phận bèo bao quản nước sa,
2020./ "Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
"Chỉn e quê khách một mình,
"Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!"
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.
2025./ Bên mình giắt để hộ thân,
Lần nghe canh đã một phần trống ba.
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
Mịt mù dặm cát đồi cây,
2030./ Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
Canh khuya thân gái dặm trường,
Phần e đường xá, phần thương dãi dầu!



Chú giải:

1937. Gác kinh: Cái gác viết kinh, chỉ chỗ ở của Kiều.
Viện sách: Tức thư viện, phòng đọc sách, chỉ chỗ ở của Thúc sinh.
1940. Vấn an: Hỏi thăm sức khoẻ.
1944. Áo xanh: Do chữ thanh sam, chỉ thứ áo xanh mà các nhà nho sĩ xưa thường mặc.
1950. Cát lầm ngọc trắng: ý nói Kiều như "ngọc trắng" mà bị cát vùi dập.
1953. Tông đường: Nhà tổ tông. Ở đây dùng với nghĩa: "nối dõi tông đường". Ý nói Thúc sinh nghĩ mình chưa có con trai để nối dõi tông đường.
1969. Dông tố: Cơn mưa to gió lớn, ở đây chỉ sự giận giữ ghê gớm của Hoạn thư.
1987. Bút pháp: Phép viết chữ.
1988. Thiếp Lan - đình: Do chữ Lan-đình thiếp là bản bút tích rất tốt của nhà văn Vương Hy Chi, đời Tần.
1991. Thiền trà: Nước trà của nhà chùa.
Hồng mai: Gỗ cây mai già dùng để nấu làm nước uống, sắc nước đỏ hồng, nên gọi là hồng mai.
1992. Thư trai: Nhà đọc sách, cũng như thư viện.
2008. Bó tay: Chữ hán là thúc thủ. Đặt hai chữ "bó tay" sau chữ "Thúc" là một cách chơi chữ của tác giả.
2011. Đãi đằng: ở đây lại có nghĩa là nói năng, làm ầm ĩ lên.
2014. Cổ nhân có câu: Nộ giả thường tình, tiếu giả bất khả trắc, nghĩa là: Giận dữ là thói thường, cười thì không thể lường được. Câu này dùng ý ấy.
2018. Câu này ý nói: Bị giam giữ ở đây lâu, thế nào cũng có ngày mình bị hành hạ điêu đứng hơn, hoặc bị trừ khử.
2020. Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ thân phận của mình như cánh bèo trên mặt nước, ở đâu thì cũng là lênh đênh cả, không còn quản gì.
2024. Kim ngân: Vàng bạc, chỉ các đồ thờ như chuông, khánh đúc bằng vàng bạc.

32Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:49 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
2035./ Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài.
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong.
Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
2040./ Giác duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
"Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,
"Qui sư qui Phật, tu hành bấy lâu.
2045./ "Bản sư rồi cũng đến sau,
"Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh."
Rày vâng diện hiến rành rành,
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra.
Xem qua sư mới dạy qua:
2050./ "Phải ni Hằng Thủy là ta hậu tình.
"Chỉn e đường sá một mình,
"Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày."
Gửi thân được chốn am mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
2055./ Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
Hương đèn việc trước, trai phòng quen tay.
Sớm khuya lá bối phiến mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
Thấy nàng thông tuệ khác thường,
2060./ Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
Cửa thiền vừa cử cuối xuân,
Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời.
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lân chơi cửa già.
2065./ Giở đồ chuông khánh xem qua,
Khen rằng: "Khéo giống của nhà Hoạn nương!"
Giác Duyên thực ý lo lường,
Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
2070./ Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
"Bây giờ sự đã dường này,
"Phận hèn dù rủi, dù may, tại người."
Giác Duyên nghe nói rụng rời,
Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
2075./ Rỉ tai mới kể sự lòng:
"Ở đây cửa Phật là không hẹp gì;
"E chăng những sự bất kỳ,
"Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
"Lánh xa, trước liệu tìm đường,
2080./ "Ngồi chờ nước đến, nên dường còn quê!"


Chú giải:

2036. Chiêu ẩn: Tên ngôi chùa, nghĩa là chiêu nạp những người ẩn dật.
2038. Trụ trì: Cư trú và chủ trì mọi công việc trong một ngôi chùa.
2043. Tiểu thiền: Cũng như tiểu tăng, là người đi tu nhỏ mọn (Lời Kiều tự khiêm).
2044. Qui sư qui Phật: Theo thầy, theo Phật, cũng như nói "qui tăng, qui phật".
2045. Bản sư: Vị sư thầy mình theo học.
2046. Pháp bảo: Chỉ các đồ thờ cúng quý giá.
Sư huynh: Vị sư đàn anh, lời xưng hô giữa các vị sư với nhau.
2047. Diện hiến: Đem dâng ngay trước mặt.
2050. Hằng Thuỷ: Tên hiệu một vị sư nữ khác mà Kiều mạo xưng là thầy học mình.
Hậu tình: Tình nghĩa đối xử hậu hĩ, thân mật.
2053. Am mây: Do chữ Vân phòng, chỗ nhà sư ở.
2059. Thông tuệ: Thông minh, sáng suốt;
2062. Vẻ ngân: ánh bạc, ánh trăng sáng như bạc.
2064. Đàn việt: Người đứng ra bố thí, thường thường để chỉ người có công với nhà chùa, hay người đi vãn cảnh chùa.
Cửa già: Tiếng Phạn gọi chùa là già lam.
2080. Ở đây ý nói ngồi chờ nước đến chân rồi mới nhảy là khờ dại.

33Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:50 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Có nhà họ Bạc bên kia,
Am mây quen lối đi về dầu hương.
Nhắn sang, dặn hết mọi đường,
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.
2085./ Những mừng được chốn an thân,
Vội vàng nào kíp tính gần tính xa.
Nào ngờ cũng tổ bợm già,
Bạc bà học với Tú bà đồng môn!
Thấy nàng mặn phấn tươi son,
2090./ Mừng thầm được mối bán buôn có lời.
Hư không đặt để nên lời,
Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen.
Mụ càng xuôi giục cho nên
Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần.
2095./ Rằng: "Nàng muôn dặm một thân,
"Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa.
"Khéo oan gia, của phá gia,
"Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây!
"Kíp toan kiếm chốn xe dây,
2100./ "Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!
"Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
"Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
"Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
"Cũng trong thân thích ruột rà, chẳng ai.
2105./ "Cửa hàng buôn bán Châu Thai,
"Thật thà có một, đơn sai chẳng hề.
"Thế nào nàng cũng phải nghe,
"Thành thân rồi sẽ liệu về Châu Thai.
"Bấy giờ ai lại biết ai,
2110./ "Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.
"Nàng dù quyết chẳng thuận tình,
"Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau."
Nàng càng mặt ủ mày chau,
Càng nghe mụ nói, càng đau như dần.
2115./ Nghĩ mình túng đất, sẩy chân,
Thế cùng nàng mới xa gần thở than:
"Thiếp như con én lạc đàn,
"Phải cung rày đã sợ làn cây cong!
"Cùng đường dù tính chữ tòng,
2120./ "Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
"Nữa khi muôn một thế nào,
"Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu?
"Dù ai lòng có sở cầu,
"Tâm minh xin quyết với nhau một lời.
2125./ "Chứng minh có đất, có Trời,
"Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?"
Được lời mụ mới ra đi,
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
Một nhà dọn dẹp linh đình,
2130./ Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang.
Bạc sinh quì xuống vội vàng,
Quá lời nguyện hết thành hoàng thổ công.
Trước sân lòng đã giãi lòng,
Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.
2135./ Thành thân mới rước xuống thuyền,
Thuận buồm một lá xuôi miền châu Thai.
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
Cũng nhà hành viện xưa nay,
2140./ Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
Xem người định giá vừa rồi,
Mối hàng một đã ra mười thì buông.
Mượn người thuê kiệu rước nàng,
Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa!
2145./ Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
Đưa nàng vào lạy gia đường,
Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
Thoắt trông nàng đã biết tình,
2150./ Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao.
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen!
2155./ Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Hồng quân với khách hồng quần,
Đã xoay đến thế, còn vần chưa tha.
Lỡ từ lạc bước bước ra,
2160./ Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
Đầu xanh đã tội tình gì?
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.



Chú giải:

2088. Đồng môn: cùng học một thầy, một trường, ý nói Bạc bà cũng một phường chủ lầu xanh như Tú bà.
2096. Tục ngữ: Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Ở đây mượn ý ấy để nói Thuý Kiều đã mang tiếng trốn chúa và ăn cắp, thế nào cũng bị người ta dị nghị.
2097. Oan gia: Bạc bà bịa đặt ra mà nói Kiều là một oan gia kiếp trước vào nhà mình để chực gây tai hoạ cho mình.
Phá gia: Phá nhà.
2099. Xe dây: Cũng như xe tơ, nghĩa là lấy chồng.
2108. Thành thân: Làm lễ hợp hôn, thành vợ chồng.
Châu Thai: Chỗ Bạc Hạnh buôn bán, thuộc tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).
2118. Cổ ngữ: Thương cung chi điểu, kiến khúc mộc nhi cao phi, nghĩa là con chim đã bị thương vì cung thì thấy cây cong cũng sợ mà bay cao.
2123. Sở cầu: Cầu đến, hỏi đến, ý nói muốn cưới làm vợ.
2124. Tâm minh: Lấy lòng thực mà thề với nhau.
2132. Thành hoàng thổ công: ý nói Bạc Hạnh thề rằng: xin thành hoàng, thổ công chứng giám tấm lòng của mình đối với Kiều.
2134. Lễ tơ hồng: Tức là Nguyệt lão, vị thần xe dây cho người nên vợ nên chồng.
2139. Hành viện: Tên gọi khác của nhà chứa.
2151. Theo nhà thuật số đời xưa thì đào hoa làm một hung tịch, chiếu vào cung mệnh con trai thì bệnh tật, chiếu vào cung mệnh con gái thì phải làm nghề buôn hương bán phấn.
2157. Hồng quân: Chỉ con tạo. Hồng quần: Cái quần đỏ, được dùng để chỉ người con gái.
2164. Mặt phấn: Mặt trát phấn, ý thân phận người con gái.

34Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:50 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

2165./ Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi,
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
2170./ Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
2175./ Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: "Tâm phúc tương cờ
2180./ "Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
"Bấy lâu nghe tiếng má đào,
"Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
"Một đời được mấy anh hùng,
"Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi!"
2185./ Nàng rằng: "Người dạy quá lời,
"Thân này còn dám xem ai làm thường!
"Chút riêng chọn đá thử vàng,
"Biết đâu mà gởi can trường vào đâu?
"Còn như vào trước ra sau,
2190./ "Ai cho kén chọn vàng thau tại mình."
Từ rằng: "Lời nói hữu tình,
"Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.
"Lại đây xem lại cho gần,
"Phỏng tin được một vài phần hay không?"
2195./ Thưa rằng: "Lượng cả bao dong,
"Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
"Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!"
Nghe lời vừa ý gật đầu,
2200./ Cười rằng: "Tri kỷ trước sau mấy người!
"Khen cho con mắt tinh đời,
"Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
"Một lời đã biết đến ta,
"Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!"
2205./ Hai bên ý hợp tâm đầu,
Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân,
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.
Buồn riêng sửa chốn thanh nhàn,
2210./ Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.



Chú giải:

2166. Biên đình: Nơi biên ải xa xôi.
2167. Râu hùm, hàm én, mày ngài: Tướng mạo của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
2169. Anh hào: Anh hùng hào kiệt.
2170. Côn: Món võ đánh bằng gậy.
Quyền: Món võ đánh bằng tay.
Lược thao: Mưu lược về các dùng binh, do chữ Lục thao, Tam lược là hai pho binh thư đời xưa mà ra.
2172. Việt Đông: Chỉ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) ở về phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
2174. Ý câu này muốn nhắc đến câu thơ của Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường: Bán kiên cung kiếm băng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa duy (chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chi một mái chèo mà đi khắp cả non sông).
2176. Tấm lòng nhi nữ: ý nói người đẹp.
Lầu hồng: do chữ hồng lâu.
2179. Tâm phúc tương cờ: Tương cờ tức tương kỳ. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỷ chứ không phải là cái tình yêu đương trăng gió tạm bợ.
2182. Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn, trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói: Từ Hải hỏi Kiều, xưa nay nàng chưa hề xem trọng ai có phải không?
2184. Cá chậu chim lồng: Chỉ hạng người tầm thường, sống trong vòng giam hãm câu thúc.
2192. Bình-nguyên quân: Chính tên là Triệu Thắng, một trọng thần nhà Triệu, đời Chiến quốc được phong đất ở Bình Nguyên nên gọi là Bình nguyên quân, nổi tiếng là người hiếu khách. Cao Thích đời Đường có câu: Vị trí can đảm hướng thùy thị, linh nhân khước ức Bình Nguyên quân, nghĩa là chẳng biết gan mật hướng vào ai, khiến người ta lại nhớ Bình Nguyên quân.
2196. Tấn Dương: Tên đất, nơi Đường Cao tổ khởi binh đánh nhà Tùy, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói: Thúy Kiều tin tưởng là Từ Hải sẽ làm nên sự nghiệp đế vương.
2200. Tri kỷ: Người hiểu biết mình.
2202. Trần ai: Bụi bậm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.
2204. Nghìn tứ: do chữ thiên tứ, nghìn cỗ xe chỉ cảnh giàu sang.
2205. Ý hợp tâm đầu: Tâm tình và ý nghĩa đều tương đắc với nhau.
2208. Nguyên ngân: Số tiền bỏ ra khi trước.
Phát hoàn: Đưa trả lại.
2210. Bát tiên: Tám vị tiên là Chung Ly Quyền, Lã Động Tần, Trương Quả Lão, Lý Thiết Quái, Lam Thái Hòa, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Hàn Tương Tử. Người ta hay vẽ hình tám vị tiên này trên màn trướng.
2212. Sánh phượng, cưỡi rồng: Xưa Kính Trọng, người nước Tần, được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: Phượng hoàng vu phi... (Chim phượng hoàng cung bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này dùng ý hai điển ấy để nói Từ Hải, Thúy Kiều đẹp duyên với nhau.

35Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:50 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215./ Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm, yên ngựa lên đường thẳng dong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
"Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi!"
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220./ "Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
"Bao giờ mười vạn tinh binh,
"Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
"Làm cho rõ mặt phi thường,
"Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia,
2225./ "Bằng nay bốn bể không nhà,
"Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
"Đành lòng chờ đó ít lâu,
"Chầy chăng là một năm sau vội gì?"
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230./ Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Nàng từ chiếc bóng song mai,
Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây.
Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy,
Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
2235./ Đoái trông muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa;
Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi.
Chốc đà mười mấy năm trời,
2240./ Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng!
Duyên em dù nối chỉ hồng,
May ra khi đã tay bồng tay mang.
2245./ Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
Đêm ngày luống những âm thầm,
2250./ Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương,
Ngất trời sát khí mơ màng,
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.
Người quen kẻ thuộc chung quanh
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
2255./ Nàng rằng: "Trước đã hẹn lời,
"Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa."
Còn đang dùng dắng ngẩn ngơ
Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng la.
Giáp binh kéo đến quanh nhà,
2260./ Đồng thanh cùng gửi: "Nào là phu nhân?"
Hai bên mười vị tướng quân,
Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.
Cung nga, thể nữ nối sau,
Rằng: "Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui."
2265./ Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng.
Dựng cờ, nổi trống lên đường,
Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng kéo sau.
Hoả bài tiền lộ ruổi mau,
2270./ Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.
Kéo cờ lũy phát súng thành,
Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài.
Rỡ mình là vẻ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.
2275./ Cười rằng: "Cá nước duyên ưa,
"Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
"Anh hùng mới biết anh hùng,
"Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?"
Nàng rằng: "Chút phận ngây thơ,
2280./ "Cũng may dây cát được nhờ bóng cây.
"Đến bây giờ mới thấy đây,
"Mà lòng đã chắc những ngày một hai."
Cùng nhau trông mặt cả cười,
Dan tay về chốn trướng mai tự tình.
2285./ Tiệc bày thưởng tướng khao binh
Thì thùng trống trận, rập rình nhạc quân.
Vinh hoa bõ lúc phong trần,
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.



Chú giải:

2214.Trượng phu: ở đây có nghĩa là đàn ông tài giỏi, có chí lớn.
2219. Tâm phúc tương tri: Biết nhau từ trong thâm tâm, hiểu rõ bụng dạ của nhau.
2220. Nữ nhi thường tình: cái tính thông thường của đàn bà, con gái.
2222. Chiêng: Tức chính cổ, chỉ chung chiêng trống. Tinh: Tức tinh kỳ, chỉ chung cờ quạt, tượng trưng cho nghi vệ và đội ngũ quân lính ngày xưa.
2224. Nghi gia: Do chữ nghi kỳ thất gia ở Kinh Thi, ý nói vợ chồng hoà hợp. Ở đây, hai chữ nghi gia có nghĩa là gái về nhà chồng.
2230. Bằng: Một loại chim rất lớn. Sách Trang Tử có câu Bằng chi tỉ ư Nam minh đã, đoàn phù dạo nhi thường giả cửu vạn lý (Chim bằng khi rời biển Nam, vỗ cánh trong làn gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm tầng không). Người ta thường dùng hình ảnh ấy để chỉ người anh hùng có địa bàn hoạt động rộng rãi, có mưu đồ sự nghiệp lớn lao.
2235. Hán Cao tổ quê ở Phần Du, sau khi làm vua có về làng ấy chơi. Người sau bèn dùng hai chữ phần du để chỉ quê nhà, ở đây hợp với chữ tử thành tử phần để chỉ quê nhà.
2236. Thơ Hàn Dũ đời Đường: Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại? Nghĩa là: Mây che ngang núi Tần, biết quê nhà ở đâu? Ý nói Kiều nhớ nhà.
2242. Ý nói : Kiều tuy dứt tình với Kim Trọng, nhưng lòng vẫn không quên chàng, cũng ví như ngó sen bị bẻ gãy, mà sợi tơ vẫn liền với nhau.
2245. Cố quốc tha hương: Có nghĩa là quê nhà đất khách.
2250. Lửa binh: Do chữ binh hỏa nghĩa là giặc giã.
2251. Sát khí: Cái khí dữ dội của cảnh chém giết, thường được dùng để chỉ cảnh binh đao sát phạt.
2252. Kình ngạc: Hai giống cá to, dữ, thường được dùng để chỉ những tay kiệt hiệt trong đám giặc giã. Giáp binh: áo giáp và binh khí, đây dùng để chỉ quân lính.
2260. Phu nhân: Tiếng xưng hô đối với vợ các người tôn quí. Đây chỉ Thuý Kiều.
2263. Cung nga: Gái hầu trong cung, cung nữ. Thể nữ: Loại gái hầu kém cung nữ một bậc, ở đây tác giả dùng những danh từ ấy là có ý xem Từ Hải như một vị đế vương.
2265. Phượng liễn loan nghi: Xe, kiệu và đồ nghi trượng có chạm khắc thêu vẽ hình loan, chim phượng.
2266. Hoa quan: Mũ hoa.
Hà y: áo mầu hồng như ràng mặt trời..
2269. Hỏa bài: Cái thẻ bài hoả tốc, cầm đi trước để báo tin.
2270. Nam đình: Triều đình phương Nam do Từ Hải lập ra.
Đại doanh: Doanh trại lớn, nơi đóng đại quân của Từ Hải.
2272. Thân nghênh: Tự mình đích thân ra đón.
2273: Cân: Khăn (mũ); đai: Cái đai vòng quanh áo lễ. Câu này ý nói Từ Hải lúc này ăn mặc không phải như lần gặp Kiều khi còn hàn vi, mà đã ăn mặc theo cung cách đế vương.
2275. Cá nước duyên ưa: Do câu ngư thuỷ duyên hài, ý nói vợ chồng đẹp duyên với nhau.
2284. Trướng mai: Trướng có thêu hoa mai, chỉ phòng nằm của vợ chồng.

36Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:51 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Trong quân có lúc vui vầy,
2290./ Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
"Khi Vô Tích, khi Lâm Truy,
"Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương.
"Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
"Chút còn ân oán đôi đường chưa xong."
2295./ Từ Công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
2300./ Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy,
Mấy người phụ bạc xưa kia,
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
2305./ Mụ quản gia, vãi Giác Duyên,
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
Thệ sư kể hết mọi lời,
Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy!
Đạo trời báo phục chỉn ghê,
2310./ Khéo thay ! Một mẻ tóm về đầy nơi,
Quân trung gươm lớn giáo dài,
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi.
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Vác đòng chật đất, tinh kỳ rợp sân.
2315./ Trướng hùm mở giữa trung quân,
Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.
Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.
Từ rằng: "Ân, oán hai bên,
2320./ "Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh"
Nàng rằng: "Muôn cậy uy linh,
"Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.
"Báo ân rồi sẽ trả thù."
Từ rằng: "Việc ấy để cho mặc nàng."
2325./ Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ, mình dường giẻ run.
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
"Lâm Truy người cũ, chàng còn nhớ không?
"Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
2330./ "Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
"Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
"Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là!
"Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
"Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!
2335./ "Kiến bò miệng chén chưa lâu,
"Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa"
Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm.
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
2340./ Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.
Mụ già, sư trưởng thứ hai,
Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên,
Dắt tay mở mặt cho nhìn:
"Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
2345./ "Nhớ khi lỡ bước xẩy vời,
"Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
"Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
"Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân?"



Chú giải:

2297. Nghiêm quân: Chỉnh đốn hàng ngũ quân lính.
Tuyển tướng: Lựa chọn tướng tá.
2298. Ruổi sao: Do chữ tinh trì, ý nói đi nhanh như sao đổi ngôi.
2299. Ba quân: Danh từ chỉ chung quân đội. Đời xưa các nước chư hầu có ba quân, mỗi quân 12.500 người. Và các nước thường chia quân đội làm ba bộ phận: trung quân, tả quân, hữu quân; hoặc: trung quân, thượng quân, hạ quân.
2303. Lệnh tiễn: Cờ lệnh có cắm mũi tên sắt của các tướng soái dùng để làm hiệu lệnh hoặc để làm tin.
2307. Thệ sư: Lời tuyên cáo và hiểu dụ quân sĩ trước lúc xuất quân.
2308. Chấp uy: Chấp hành uy lệnh.
2309. Báo phục: Bảo trả lại, ý nói làm ân thì sẽ được trả ân, làm oán thì sẽ có lúc bị người ta trả oán.
2312. Cơ, vệ: Tên gọi các đơn vị quân lính đời xưa.
Thị lập: Đứng chầu.
Song phi: Dàn làm hai hàng.
2315. Trướng hùm: Dịch chữ hổ trướng. Xưa thường dùng da hùm làm thành cái màn lớn để chủ soái họp bàn với các tướng, nên người sau quen dùng chữ "hổ trướng" để chỉ chỗ làm việc của các tướng soái.
Trung quân: Đội quân đóng ở giữa, do chính chủ tướng chỉ huy.
2318. Cửa viên: Viên là cái càng xe. Đời xưa lúc quân đội cắm trại thường dùng xe làm cửa, nên cửa doanh trại của quân đội gọi là "viên môn".
2326. Chàm đổ: Mặt xanh như màu chàm đổ vào.
Giẻ run: Mình run như chim giẻ.
2329. Sâm và Thương: Theo nhận thức của người xưa, thì sao Sâm ở phương tây sao Thương ở phương đông, sao này lặn sao kia mới mọc. Hai sao này không bao giờ gặp nhau, nên người ta dùng để chỉ cảnh xa cách mỗi người một nơi. Đối chiếu thiên văn học hiện nay đó là hai sao Orion và Scorpion.
2334. Tục ngữ: Kẻ cắp gặp bà già, ý nói hai kẻ ranh ma quỷ quái lại gặp phải nhau.
2341. Mụ già: Chỉ bà quản gia nhà họ Hoạn.
Sư trưởng: Chỉ Giác Duyên.
2348. Phiếu mẫu: Bà làm nghề giặt sợi ở bến nước. Hàn Tín đời Hán lúc hàn vi được bà Phiếu mẫu đãi một bữa cơm, sau làm đến tước vương, tạ ơn nghìn vàng.

37Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:51 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Hai người, trông mặt tần ngần,
2350./ Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui.
Nàng rằng: "Xin hãy rốn ngồi,
"Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!"
Kíp truyền chư tướng hiến phù,
Lại đem các tích phạm tù hậu tra.
2355./ Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Thoát trông nàng đã chào thưa:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
"Đàn bà dễ có mấy tay,
2360./ "Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
"Dễ dàng là thói hồng nhan,
"Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!"
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, lựa điều kêu ca.
2365./ Rằng: "Tôi chút dạ đàn bà,
"Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,
"Nghĩ cho khi các viết kinh,
"Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
"Lòng riêng riêng những kính yêu;
2370./ "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai.
"Trót lòng gây việc chông gai,
"Còn nhờ lượng bể thương bài cho chăng?"
Khen cho: "Thật đã nên rằng,
"Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,
2375./ "Tha ra thì cũng may đời,
"Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
"Đã lòng tri quá thì nên,
"Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay."
Tạ lòng lạy trước sân mây,
2380./ Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào,
Nàng rằng: "Lồng lộng trời cao,
"Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta?
"Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
"Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
2385./ "Tú Bà với Mã Giám Sinh,
"Các tên tội ấy đáng tình còn sao?"
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình,
Máu rơi thịt nát tan tành,
2390./ Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta !
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
2395./ Ba quân đông mặt pháp trường,
Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi.


Chú giải:

2353. Hiến phù: Dâng nộp những người bắt được.
2354. Hậu tra: Chờ để tra xét.
2377. Tri quá: Biết lỗi, tự mình biết nhận rằng mình có lỗi.
2382. Hại nhân, nhân hại: Làm hại người thì sẽ bị người hại.
2387. Nội đao: Quân đao phủ, chuyên việc chém người.
2395. Pháp trường: Chỗ để hành hình người có tội.
2396. Thanh thiên bạch nhật: Trời xanh ngày trắng, ý nói giữa ban ngày ban mặt, ai cũng được

38Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Fri Apr 16, 2010 11:52 pm

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Việc nàng báo phục vừa rồi,
Giác Duyên vội đã gởi lời từ qui.
Nàng rằng: "Thiên tải nhất thì,
2400./ "Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
"Rồi đây bèo hợp mây tan,
"Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!"
Sư rằng: "Cũng chẳng mấy lâu,
"Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
2405./ "Nhớ ngày hành cước phương xa,
"Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri.
"Bảo cho hội ngộ chi kỳ,
"Năm nay là một nữa thì năm năm.
Mới hay tiền định chẳng lầm,
2410./ Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
Còn nhiều ân ái với nhau,
Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
Nàng rằng: "Tiền định tiên tri,
"Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
2415./ "Họa bao giờ có gặp người,
"Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân."
Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài.
Nàng từ ân oán rạch ròi,
2420./ Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
Tạ ân lạy trước Từ công:
"Chút thân bồ liễu nào mong có rày!
"Trộm nhờ sấm sét ra tay,
"Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!
2425./ "Chạm xương chép dạ xiết chi,
"Dễ đem gan óc đền nghì trời mây !"
Từ rằng: "Quốc sĩ xưa nay,
"Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
"Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
2430./ "Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha !
"Huống chi việc cũng việc nhà,
"Lọ là thâm tạ mới là tri ân.
"Xót nàng còn chút song thân,
"Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
2435./ "Sao cho muôn dặm một nhà,
"Cho người thấy mặt là ta cam lòng."
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.



Chú giải:

2398. Từ qui: Từ giã ra về.
2399. Thiên tải nhất thì: Ngàn năm mới có một dịp. Câu này thường dùng để chỉ dịp may hiếm có.
Bàn hoàn: Đây có nghĩa là gặp gỡ trò chuyện.
2402. Hạc nội: Chim hạc ở ngoài đồng nội. Mây ngàn: Đám mây bay trên rừng núi. Ý nói nay đây mai đó, nơi ở không nhất định.
2405. Hành cước: Đi bộ, tiếng nhà Phật, chỉ việc các nhà sư đi vân du.
2406. Tiên tri: Biết trước mọi việc chưa xảy ra.
2407. Hội ngộ chi kỳ: Cái kỳ hẹn gặp gỡ nhau.
2409. Tiền định: Đã định sẵn từ trước.
2416. Chung thân: Trọn đời, ý nói Kiều muốn hỏi số phận của mình suốt đời ra sao.
2425. Chạm xương chép dạ: Do chữ minh tâm khắc cốt: Ý nói ơn sâu của Kiều xin ghi vào lòng, khắc vào xương không bao giờ quên.
2426. Nghì trời mây: Ơn nghĩa cao cả như trời mây.
2427. Quốc sĩ: Kẻ sĩ tài giỏi có tiếng trong nước.
2430. Cổ ngữ: Lộ kiến bất bình, bạt dao tương trợ, ý nói người anh hùng nghĩa hiệp, giữa đường đi mà thấy điều gì không công bằng thì tuốt gươm ra mà giúp sức cho người bị áp bức. Câu này mượn ý ấy.
2432. Thâm tạ: Tạ ơn một cách sâu sắc.
Tri ân: Biết ơn của người khác đối với mình.
2434. Việt: Một xứ ở Đông nam Trung Quốc;
Tần: Một xứ ở bắc Trung Quốc. Kẻ Việt người Tần có nghĩa là cách biệt xa xôi.
2438. Tẩy oan: Rửa tội oan, ý nói Từ Hải sai mở tiệc để làm hội rửa sạch tội oan cho Kiều.

39Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:42 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
2440./ Bình uy từ ấy sấm ran trong ngoài.
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
Đòi cơn gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam.
2445./ Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những loài giá áo túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Kém gì cô quả, kém gì bá vương !
Trước cờ ai dám tranh cường,
2450./ Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Có quan tổng đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát tiễu việc ngoài đổng nhung.
2455./ Biết Từ là đấng anh hùng,
Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
Đóng quân làm chước chiêu an,
Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
Lại riêng một lễ với nàng,
2460./ Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân.
Tin vào gởi trước trung quân,
Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.
Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
2465./ Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên thùy,
2470./ Sức này đã dễ làm gì được nhau?
Chọc trời quấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
Nàng thì thật dạ tin người,
Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
2475./ Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
Công tư vẹn cả hai bề,
2480./ Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
2485./ Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
E dè sóng vỗ hãi hùng nước sa.



Chú giải:

2452. Kinh luân: Nghĩa đen là quay tơ và bện tơ, người ta thường dùng để nói tài sắp xếp chính sự, kinh bang tế thế.
2453. Đẩy xe: Do chữ thôi cốc (đẩy bánh xe). Đời xưa, khi sai tướng đi đánh giặc, vua thường tự mình đẩy vào xe của viên tướng một cái, để tỏ ý tôn trọng. Câu này ý nói: vua nhà Minh sai Hồ Tôn Hiến đi đánh Từ Hải là một việc rất quan trọng.
2454. Tiện nghi bát tiễu: Tùy tiện mà đánh đẹp.
Đổng nhung: Trông coi, đốc suất việc quân.
2457. Chiêu an: Kêu gọi chiêu dụ cho giặc đầu hàng.
2477. Vương thần: Bề tôi của nhà vua.
2478. Thanh vân: Mây xanh, người xưa thường dùng để chỉ con đường công danh.
2481. Mệnh phụ: Vợ các quan to đời xưa, được vua ban sắc mệnh phong cho làm phu nhân.
2484. Đắc hiếu: Tròn đạo hiếu với cha mẹ.
Đắc trung: Tròn đạo trung với vua.
2485. Chiếc bách: Do chữ bách châu có nghĩa là mảnh thuyền, ý nói thân phận lênh đênh.

40Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:42 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Nhân khi bàn bạc gần xa,
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: "Trong Thánh trạch dồi dào,
2490./ "Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
"Bình thành công đức bấy lâu,
"Ai ai cũng đội trên đầu biết bao.
"Ngẫm từ dấy việc binh đao,
"Đống xương Vô-định đã cao bằng đầu.
2495./ "Làm chi để tiếng về sau,
"Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
"Sao bằng lộc trọng quyền cao,
"Công danh ai dứt lối nào cho qua?"
Nghe lời nàng nói mặn mà,
2500./ Thế công Từ mới trở ra thế hàng.
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.
Tin lời thành hạ yêu minh,
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
2505./ Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.
Hồ công quyết kế thừa cơ,
Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công.
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
2510./ Lễ nghi dàn trước vác đòng phục sau.
Từ công hờ hững biết đâu,
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.
Hồ công ám hiệu trận tiền,
Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
2515./ Đang khi bất ý chẳng ngờ,
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
Tử sinh liều giữa trận tiền,
Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
Khí thiêng khi đã về thần,
2520./ Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
Trơ như đá vững như đồng,
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
Quan quân truy sát đuổi dài.
Ù ù sát khí ngất trời ai đang.
2525./ Trong hào ngoài lũy tan hoang,
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
Trong vòng tên đá bời bời,
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.
Khóc rằng: "Trí dũng có thừa,
2530./ "Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
"Mặt nào trông thấy nhau đây?
"Thà liều sống thác một ngày với nhau!"
Dòng thu như dội cơn sầu,
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
2535./ Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
Quan quân kẻ lại người qua,
Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
Đem vào đến trước trung quân,
2540./ Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.
Rằng: "Nàng chút phận hồng nhan,
"Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương!
"Đã hay thành toán miếu đường,
"Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
2545./ "Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
"Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?"
Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.
Rằng: "Từ là đấng anh hùng,
2550./ "Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi!
"Tin tôi nên quá nghe lời,
"Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.
"Ngỡ là phu quý phụ vinh,
"Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
2555./ "Năm năm trời bể ngang tàng,
"Dấn mình đi bỏ chiến trường như không.
"Khéo khuyên kể lấy làm công,
"Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
"Xét mình công ít tội nhiều,
2560./ "Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!
"Xin cho tiện thổ một doi,
"Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh."
Hồ công nghe nói thương tình,
Truyền cho cảo táng di hình bên sông.



Chú giải:

2491. Bình thành: Do chữ địa bình thiên thành ở Kinh thư, ý nói nhà vua sửa sang việc nước cho trời đất được bằng phẳng.
2494. Vô định: Tên một con sông ở biên thùy tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Ngày xưa ở con sông ấy đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giữa người Hán và người Hồ, làm cho rất nhiều người bị chết.
2496. Hoàng Sào: Một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa cuối đời Đường, đã từng vây hãm kinh đô Trường An, tung hoành trong mười năm trời, sau bị thủ hạ giết chết.
2502. Thúc giáp: Bó áo giáp lại.
Giải binh: Cho quân đội nghỉ ngơi không chiến đấu nữa.
2503. Thành hạ yêu minh: Cùng nhau ăn thề dưới thành để tỏ ý không làm hại nhau và thật thà tuân theo đúng những điều đã ước hẹn.
2506. Vương sư: quân của nhà vua, tức quân của Hồ Tôn Hiến.
2507. Quyết kế thừa cơ: Quyết định cái mưu là nhân cơ hội Từ Hải trễ tràng việc quân để đánh.
2508. Lễ tiên binh hậu: Phía trước thì dàn nghi lễ để chiêu hàng, phía sau thì phục sẵn binh mã để phản công.
Khắc cờ: ấn định kỳ hạn.
Tập công: Đánh úp.
2509. Chiêu phủ: Kêu gọi, vỗ về, để cho quy hàng.
Tiên phong: Toán quân đi trước. Câu này ý nói: Hồ Tôn Hiến lập mưu cho kéo cờ "chiêu phủ" đi trước.
2512. Đại quan lễ phục: Ăn bận theo phục sức của vị quan lớn không mặc binh phục.
2529. Trí dũng: Trí khôn và sức mạnh.
2533. Dòng thu: Đây là chỉ nước mắt.
2535. Oan khí tương triền: Cái oan khí ức vấn vít lại với nhau. Ý nói: Giữa Từ Hải và Thuý Kiều hình như cùng chung mối uất ức.
2542. Binh cách: Binh là binh khí. Cách là áo giáp và mũ đầu mâu. Người ta thường dùng hai chữ binh cách để chỉ cuộc binh đao chinh chiến.
2543. Thành toán miếu đường: Mưu chước đã sắp đặt sẵn ở nơi tôn miếu triều đường. Câu này ý nói: đành hay triều đình đã có mưu kế sẵn, nhưng cũng nhờ lời nàng nói giúp mới nên việc.
2552. Bách chiến: Trăm trận đánh, ý nói Từ Hải là một người dạn dày trong chiến trận.
2553. Phu quý phụ vinh: Chồng làm nên quan, sang cả thì vợ cũng được vinh hiển.
2555. Ngang tàng: Cũng có nghĩa như hiên ngang, ý nói người tung hoành ngang trời dọc đất.
2561. Tiện thổ: Miếng đất xấu.
2564. Cảo táng: Chôn một cách sơ sài, không có khâm liệm quan quách gì. Di hình: Cũng như di hài

41Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:43 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

2565./ Trong quân mở tiệc hạ công,
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
Bắt nàng thị yến dưới màn,
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.
Một cung gió thảm mưa sầu,
2570./ Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Hỏi rằng: "Này khúc ở đâu?
"Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!"
2575./ Thưa rằng: "Bạc mệnh khúc này,
"Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
"Cung cầm lựa những ngày xưa,
"Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!"
Nghe càng đắm ngắm càng say,
2580./ Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
Dạy rằng: "Hương lửa ba sinh,
"Dây loan xin nối cầm lành cho ai."
Thưa rằng: "Chút phận lạc loài,
"Trong mình nghĩ đã có người thác oan.
2585./ "Còn chi nữa cánh hoa tàn,
"Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân.
"Rộng thương còn mảnh hồng quần,
"Hơi tàn được thấy gốc phần là may!"
Hạ công chén đã quá say,
2590./ Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra.
"Nghĩ mình phương diện quốc gia,
"Quan trên nhắm xuống người ta trông vào.
"Phải tuồng trăng gió hay sao,
"Sự này biết tính thế nào được đây?"
2595./ Công nha vừa buổi sáng ngày,
Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài.
Lệnh quan ai dám cãi lời,
Ép tình mới gả cho người thổ quan.
Ông tơ thực nhé đa đoan!
2600./ Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?



Chú giải:

2565. Hạ công: Mừng công (Thắng trận).
2567. Thị yến: Hầu hạ bên bàn tiệc.
2581. Hương lửa ba sinh: Do chữ tam sinh hương hoả, ý nói duyên nợ vợ chồng từ kiếp xưa để lại.
2582. Dây loan: Chỉ việc nối lại nhân duyên vợ chồng.
2586. Tiểu lân: Tên nàng Phùng Thục Phi, vợ vua Hậu chủ nước Tề, đời Nam Bắc triều. Sau khi nước Tề mất, nàng về tay người khác, nhân lúc dây đàn đứt, nàng làm bài thơ cảm hoài trong đó có câu: Dục trí tâm đoạn tuyệt, ưng khan tất thương huyền. Nghĩa là muốn biết tơ lòng dứt nát, nên xem cái dây trên đầu gối thì rõ. Câu này mượn ýcâu thơ ấy.
2588. Gốc phần: Do chữ phần du.
2591. Phương diện quốc gia: vị quan đảm đang công việc một vùng đất nước.
2595. Công nha: Chỗ làm việc quan, cũng như công môn đường v.v…
2598. Thổ quan: Cũng như thổ tù, viên quan người ở bản thổ, có thể ở vùng dân tộc ít người.

42Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:43 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao.
Nàng càng ủ liễu phai đào,
Trăm phần nào có phần nào phần tươi?
2605./ Đành thân cát lấp sóng vùi,
Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh!
Chân trời mặt bể lênh đênh,
Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào,
Duyên đâu ai dứt tơ đào,
2610./ Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay!
Thân sao thân đến thế này?
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
2615./ Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi!
Mảnh trăng đã gác non đoài,
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
2620./ Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền-đường.
Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây!
Đạm Tiên nàng nhé có hay!
Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.
2625./ Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
Một thiên tuyệt bút gọi là để sau.
Cửa bồng vội mở rèm châu,
Trời cao sông rộng một màu bao la.
Rằng: "Từ công hậu đãi ta,
2630./ "Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
"Giết chồng mà lại lấy chồng,
"Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?
"Thôi thì một thác cho rồi,
"Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!"
2635./ Trông vời con nước mênh mông,
Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang.
Thổ quan theo vớt vội vàng,
Thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi!
Thương thay cũng một kiếp người,
2640./ Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!
Những là oan khổ lưu ly,
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!
Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
Làm gương cho khách hồng quần thử soi!
2645./ Đời người đến thế thì thôi,
Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay.
Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!



Chú giải:

2609. Tơ đào: Cũng như tơ hồng. Câu này ý nói: Ai đã chia rẽ nhân duyên của mình, đối nghĩa với câu dưới: "Nợ đâu, ai đã giắt vào tận tay?". Nợ đây tức là việc "ép tình mới gán cho người thổ quan".
2619. Triều: Nước thủy triều, ở cửa sông Tiền Đường (Trung Quốc) khi triều lên thì có tiếng sóng đùng đùng.
2621. Thần mộng: Lời báo mộng của thần, ý nói lời Đạm Tiên dặn trong chiêm bao lúc Kiều tự vẫn ở nhà Tú Bà: "Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau".
2626. Tuyệt bút: Bút tích cuối cùng, viết trước khi chết để kể nỗi tâm tình của mình cho người sau biết.
2627. Cửa bồng: Cửa thuyền.
Rèm châu: Rèm có trang sức châu báu, hoặc rèm sơn màu đỏ.
2635. Con nước: Tiếng quen gọi của dân chài lưới để chỉ nước thủy triều lên xuống.
2638. Người xưa thường dùng hai chữ hương ngọc để chỉ phụ nữ.
2646. Âm cực dương hồi: Khi khí âm đến hết mực thì khí dương lại trở về. Câu này cũng nghĩa như câu bỉ cực thái lai, ý nói con người ta khi vận đen đã hết thì vận đỏ trở lại

43Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:44 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Giác Duyên từ tiết giã màng,
2650./ Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.
Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
"Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
"Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
2655./ Sư rằng: "Phúc họa đạo trời,
"Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
"Có trời mà cũng tại ta,
"Tu là cội phúc tình là dây oan.
"Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
2660./ "Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
"Lại mang lấy một chữ tình,
"Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
"Vậy nên những chốn thong dong,
"Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
2665./ "Ma đưa lối quỷ đem đường,
"Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
"Hết nạn ấy đến nạn kia,
"Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.
"Trong vòng giáo dựng gươm trần,
2670./ "Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi.
"Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,
"Trước hàm rồng cá gieo mồi vắng tanh.
"Oan kia theo mãi với tình,
"Một mình mình biết một mình mình hay.
2675./ "Làm cho sống đọa thác đày,
"Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!"
Giác Duyên nghe nói rụng rời:
"Một đời nàng nhé thương ôi còn gì!"
Sư rằng: "Song chẳng hề chi,
2680./ "Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
"Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
"Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm,
"Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
"Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
2685./ "Hại một người cứu muôn người,
"Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.
"Thửa công đức ấy ai bằng?
"Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi!
"Khi nên trời cũng chiều người,
2690./ "Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
"Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
"Tiền-đường thả một bè lau rước người.
"Trước sau cho vẹn một lời,
"Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!"
2695./ Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú bên sông Tiền-đường,
Đánh tranh chụm nóc thảo đường,
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Thuê năm ngư phủ hai người,
2700./ Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông.
Một lòng chẳng quảng mấy công,
Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
2705./ Ngư ông kéo lưới vớt người,
Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa!
Trên mui lướt mướt áo là,
Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
2710./ Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Mơ màng phách quế hồn mai,
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
Rằng: "Tôi đã có lòng chờ,
"Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
2715./ "Chị sao phận mỏng phúc dày,
"Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!
"Tâm thành đã thấu đến trời,
"Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
"Một niềm vì nước vì dân,
2720./ "Âm công cất một đồng cân đã già!
"Đoạn trường sổ rút tên ra,
"Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
"Còn nhiều hưởng thụ về lâu,
"Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!
2725./ Nàng còn ngơ ngẩn biết sao,
Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai.
Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
2730./ Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
2735./ Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
Nạn xưa trút sạch lầu lầu,
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.



Chú giải:

2650. Bầu: Quả bầu khô rút ruột đi để đựng nước.
Níp: Cái tráp đan bằng tre để đựng quần áo sách vở. Hai vật thường dùng của những người đi đường thời xưa.
Vân du: Danh từ nhà Phật, ý nói nhà sư đi lang thang nay đây mai đó như đám mây bay vô định.
2655. Phúc hoạ đạo trời: Nói người ở đời gặp phúc hay gặp họa đều do ý trời, không phải ngẫu nhiên.
2668. Thanh lâu: Gái điếm. Thanh y: Gái hầu. Thuý Kiều làm gái điếm một lần ở Lâm Tri, một lần ở Châu Thai và làm gái hầu một lần ở nhà Hoạn bà, một lần ở nhà Hoạn Thư.
2670. Hùm sói: Người xưa thường dùng hai chữ hùm sói để chỉ các tướng giặc. Đây muốn nói Kiều phải sống với bọn ác độc.
2680. Nghiệp duyên: Danh từ nhà Phật có nghĩa là mối duyên nợ do bản thân mình làm nên từ kiếp trước.
2683. Tình thâm: Do câu phụ tử tình thâm. Câu này ý nói: Thuý Kiều đến bối ơn nghĩa sâu sắc của cha mẹ.
2687. Thửa công đức: Nghĩa là cứ xem như công đức ấy.
2688. Túc khiên: Tội lỗi kiếp trước.
2697. Thảo đường: Nhà lợp bằng gianh, bằng cỏ.
2699. Ngư phủ: Người làm nghề chài lưới.
2703. Duềnh ngân: Dòng nước bạc.
2705. Ngư ông: Ông lão đánh cá, tức "ngư phủ" nói trên.
2711. Phách quế hồn mai: Do chữ quế phách mai hồn. Hai chữ "quế mai" ở đây dùng cho đẹp lời văn.
2720. Âm công: Công đức cứu người làm ngấm ngầm, không ai biết.
2732. Thảo lưu: Nhà tranh cũng nghĩa như thảo đường.

44Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:45 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
2740./ Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu-dương lại nhà.
Vội sang vườn Thúy dò la,
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa.
2745./ Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Xập xè én liệng lầu không,
2750./ Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa.
Chung quanh lặng ngắt như tờ,
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
2755./ Láng giềng có kẻ sang chơi,
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
Hỏi ông ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà nhà đã dời xa,
2760./ Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.
Đều là sa sút khó khăn,
May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.
Điều đâu sét đánh lưng trời,
Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!
2765./ Vội han di trú nơi nao,
Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.
Nhà tranh vách đất tả tơi,
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa.
Một sân đất cỏ dầm mưa,
2770./ Càng cao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường!
Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra.
Dắt tay vội rước vào nhà,
Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay.
2775./ Khóc than kể hết niềm tây:
"Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?
"Kiều nhi phận mỏng như tờ,
"Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
"Gặp cơn gia biến lạ dường,
2780./ "Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.
"Dùng dằng khi bước chân ra,
"Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần.
"Trót lời nặng với lang quân,
"Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
2785./ "Gọi là trả chút nghĩa người,
"Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!
"Kiếp này duyên đã phụ duyên,
"Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.
"Mấy lời ký chú đinh ninh,
2790./ "Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.
"Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
"Chàng Kim về đó con thì đi đâu?"
Ông bà càng nói càng đau,
Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.
2795./ Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai!
Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.
Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
2800./ Nhận ngừng ông mới vỗ về giải khuyên:
"Bây giờ ván đã đóng thuyền,
"Đã đành phận bạc khôn đền tình chung!
"Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
"Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?"
2805./ Dỗ dành khuyên giải trăm chiều,
Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền.
Thề xưa giở đến kim hoàn,
Của xưa lại giở đến đàn với hương.
Sinh càng trông thấy càng thương.
2810./ Gan càng tức tối ruột càng xót xa.
Rằng: "Tôi trót quá chân ra,
"Để cho đến nỗi trôi hoa giạt bèo.
"Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
"Những điều vàng đá phải điều nói không!
2815./ "Chưa chăn gối cũng vợ chồng,
"Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
"Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
"Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi!"



Chú giải:

2741. Phù tang: Phù trì đám tang, cũng nghĩa như hộ tang.
2743. Vườn Thúy: Chính nghĩa là cái vườn có hiên "Lãm Thuý" chỗ Kim Trọng trọ học lúc trước. Nhưng ở đây chỉ nơi hai người đi về tình tự lúc trước.
2748. Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kỳ ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong có câu: nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cựu tiếu đông phong. Nghĩa là: mặt người không biết đi đằng nào, hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ. Cây này dùng câu ý thơ ấy để nói không thấy bóng dánh nàng Kiều ở đâu, chỉ thấy hoa đào vẫn cười với gió đông như năm xưa mà thôi.
2757. Tụng đình: Sân kiện, nơi xử kiện. Ở đây dùng với nghĩa việc chỉ kiện cáo.
2765. Di trú: Dời đi ở chỗ khác.
2779. Gia biến: Tai biến của gia đình.
2783. Lang quân: Tiếng dùng để chỉ người chồng trẻ và chỉ những người trai trẻ nói chung.
1788. Lai sinh: Kiếp sau. Câu này ý nói: nếu như chết mà thiêng thì kiếp sau xin đền bù lại.
2789. Ký chú đinh ninh: Ghi chú, dặn dò cặn kẽ.
2801. Ván đã đóng thuyền: ý nói Thuý Kiều bây giờ đã về tay người khác.
2807. Kim hoàn: Vòng vàng, vật Kim Trọng đưa cho Thuý Kiều làm tin lúc mới gặp nhau (Câu 318: Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông)

45Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:45 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Nỗi thương nói chẳng hết lời,
2820./ Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra.
Vội về sửa chốn vườn hoa,
Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.
Thần hôn chăm chút lễ thường,
Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa.
2825./ Đinh ninh mài lệ chép thơ,
Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe.
Biết bao công mướn của thuê,
Lâm-thanh mấy độ đi về dặm khơi.
Người một nơi hỏi một nơi,
2830./ Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
Sinh càng thảm thiết khát khao,
Như nung gan sắt như bào lòng son.
Ruột tằm ngày một héo don,
Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve.
2835./ Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê,
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.
Xuân huyên lo sợ biết bao,
Quá ra khi đến thế nào mà hay!
Vội vàng sắm sửa chọn ngày,
2840./ Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng.
Người yểu điệu kẻ văn chương,
Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì,
Tuy rằng vui chữ vu quy,
Vui này đã cất sầu kia được nào!
2845./ Khi ăn ở lúc ra vào,
Càng âu duyên mới càng dào tình xưa.
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng vẻ thư phòng,
2850./ Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm.
Dường như bên nóc bên thềm,
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng,
2855./ Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.


Chú giải:

2824. Dưỡng thân: Nuôi cha mẹ. Câu này ý nói: Kim Trọng thay Kiều phụng dưỡng vợ chồng Vương ông như cha mẹ mình.
2828. Lâm-thanh: Mã Giám Sinh nói dối là quê ở đó, nên Kim Trọng mới sai người đến đây hỏi thăm tin Kiều.

46Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:46 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Những là phiền muộn đêm ngày,
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
Chế khoa gặp hội trường văn.
2860./ Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.
Cửa trời rộng mở đường mây,
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.
Chàng Vương nhớ đến xa gần,
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.
2865./ Tình xưa ân trả nghĩa đền,
Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần.
Kim từ nhẹ bước thanh vân,
Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương.
Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
2870./ Bây giờ kim mã ngọc đường với ai?
Ngọn bèo chân sóng lạc loài,
Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly.
Vâng ra ngoại nhậm Lâm Truy,
Quan sơn nghìn dặm thê nhi một đoàn.
2875./ Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.
Phòng xuân trướng rủ hoa đào,
Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
2880./ Nghe lời chàng cũng hai đường tin, nghi.
Nọ Lâm Thanh với Lâm Truy,
Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm.
Trong cơ thanh khí tương tầm,
Ở đây hoặc có giai âm chăng là?
2885./ Thăng đường chàng mới hỏi tra,
Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
"Sự này đã ngoại mười niên,
"Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
"Tú bà cùng Mã Giám sinh,
2890./ "Đi mua người ở Bắc kinh đưa về.
"Thúy Kiều tài sắc ai bì,
"Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ.
"Kiên trinh chẳng phải gan vừa,
"Liều mình thế ấy phải lừa thế kia.
2895./ "Phong trần chịu đã ê chề,
"Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang.
"Phải tay vợ cả phũ phàng,
"Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa.
"Bựt mình nàng phải trốn ra,
2900./ "Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia.
"Thoắt buôn về thoắt bán đi,
"Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!
"Bỗng đâu lại gặp một người,
"Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh.
2905./ "Trong tay mười vạn tinh binh,
"Kéo về đóng chật một thành Lâm Truy.
"Tóc tơ các tích mọi khi,
"Oán thì trả oán ân thì trả ân.
"Đã nên có nghĩa có nhân,
2910./ "Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen.
"Chưa tường được họ được tên,
"Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường."
Nghe lời đô nói rõ ràng,
Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh.
2915./ Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
Chồng con đâu tá tính danh là gì?
Thúc rằng: "Gặp lúc lưu ly,
"Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ.
"Đại vương tên Hải họ Từ,
2920./ "Đánh quen trăm trận sức dư muôn người
"Gặp nàng khi ở Châu Thai,
"Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên.
"Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
"Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.
2925./ "Đại quân đồn đóng cõi đông,
"Về sau chẳng biết vân mồng làm sao."



Chú giải:

2859. Chế khoa: Khoa thi do ý vua mà mở ra, khác với khoa thi thường lệ.
2860. Bảng xuân: Do chữ xuân bảng, bảng thi về mùa xuân. Chiếm bảng xuân tức là thi đỗ.
2861. Cửa trời: Do chữ thiên môn, tức là cửa nhà vua.
Đường mây: Do chữ vân lộ hay thanh vân lộ, ý nói đường công danh, sĩ hoạn.
2862. Ngõ hạnh: Tức Hạnh Viên ở kinh đô Tràng An. Đời nhà Đường các tân khoa tiến sĩ được dự tiệc và xem hoa ở đây.
Dặm phần: Do chữ phần du mà ra, ý nói quê nhà. Xem chú thích
2235. Câu này tả cảnh vinh hoa của Kim, Vương khi thi đỗ và về vinh qui.
2864. Chu tuyền (hay chu toàn): Làm cho được tròn vẹn. Câu này ý nói: Vương quan làm rể họ Chung.
2870. Ngọc đường: Đời Tống Thái Tông, vua đề ở dinh Hàn Lâm ba chữ Ngọc đường thự. Đời sau bèn dùng những chữ Kim mã ngọc đường để nói chung cảnh quan gia phú quý.
2873. Ngoại nhậm: Làm quan ở cõi ngoài (không phải ở huyện nhà).
2874. Thê nhi: Vợ con.
2875. Phu tử Tiện đời Xuân thu, làm quan huyện, thường hay gảy đàn, người sau bèn gọi đinh quan huyện là cầm đường.
2876. Triệu Biên đời Tống, đi làm quan, chỉ đem theo một con hạc và một cây đàn, tỏ ra người liêm khiết cao thượng.
2883. Thanh khí: Câu này ý nói: Thúy Vân, Thúy Kiều là hai chị em ruột, cho nên dễ cảm thông với nhau.
2884. Giai âm: Tin tốt.
2885. Thăng đường: Ra ngồi làm việc ở công đường.
2893. Kiên trinh: Kiên quyết giữ gìn trinh tiết.
2894. Liều mình: Chỉ việc Thuý Kiều tự vẫn lúc mới đến nhà Tú Bà.
Phải lừa chỉ việc sợ bị Sở Khanh lừa đưa đi trốn.
2907. Tóc tơ: Kẽ tóc chân tơ, ý nói hỏi rất tỷ mỷ.
2922. Thiên tài: Tài trời phú cho.
2924. Động địa kinh thiên: Sôi trời nổi đất.
2926. Vân mồng: Tiếng cổ, nghĩa là tin tức, manh mối.

47Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:46 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,
Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ.
Xót thay chiếc lá bơ vơ,
2930./ Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong?
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan!
Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,
2935./ Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi?
Bình bồng còn chút xa xôi,
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
Rắp mong treo ấn từ quan,
2940./ Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha.
Dấn mình trong án can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn!
2945./ Những là nấn ná đợi tin,
Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dờỉ
Năm mây bỗng thấy chiếu trời,
Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.
Kim thì cải nhậm Nam-bình,
2950./ Chàng Vương cũng cải nhậm thành Phú-dương.
Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.
Xảy nghe thế giặc đã tan,
Sóng êm Phúc-kiến lửa tàn Chiết-giang.
2955./ Được tin Kim mới rủ Vương,
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa
Hàng-châu đến đó bây giờ,
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
Rằng: "Ngày hôm nọ giao binh,
2960./ "Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền.
"Nàng Kiều công cả chẳng đền,
"Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
"Nàng đà gieo ngọc trầm châu,
"Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!"
2965./ Thương ôi! không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Ngọn triều non bạc trùng trùng,
2970./ Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.
Tình thâm bể thảm lạ điều,
Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?



Chú giải:

2927. Tiêu hao: Cùng nghĩa với tăm hơi, tin tức.
2937. Bình: Bèo, Bồng: Cỏ bồng. Hai vật này thường hay trôi nổi theo nước và gió. Ở đây để chỉ tấm thân phiêu bạt của Kiều.
2938. Đỉnh chung: Đỉnh: Cái vạc để nấu thức ăn. Chung: Cái chuông để đánh báo hiệu giờ ăn. Đỉnh chung ở đây dùng để chỉ cảnh vinh hiển phú quý.
2939. Treo ấn từ quan: Treo trả cái ấn tại công đường mà bỏ về, không làm quan nữa.
2947. Năm mây: Do chữ Ngũ vân, ý nói tờ chiếu có vẽ mây năm sắc; chiếu trời là chiếu nhà vua.
2948. Khâm ban: Chữ khâm, nguyên có nghĩa là kính, sau được dùng để chỉ nhà vua. Ví dụ: như nói khâm sai, khâm định...
Sắc chí: Tờ sắc ban bố mệnh lệnh của nhà vua.
2949. Cải nhậm: Đổi đi làm nơi khác. Nam-bình: Tên huyện, thuộc tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền-đường và Hàng-châu.
2952. Phó quan: Đi đến chỗ làm quan, đi nhậm chức.
2954. Phúc-kiến, Chiết-giang: Hai tỉnh phía đông nam Trung Quốc, nơi cát cứ cũ của Từ Hải.
2957. Hàng-châu: Tên phủ, nay là thủ phủ tỉnh Chiết-giang.
2960. Thất cơ: Để lỡ cơ mưu, làm sai quân cơ, tức là bị mắc mưu địch.
Thu linh: thu khí thiêng, ý nói chết.
2962. Thổ tù: Người tù trưởng ở địa phương, cùng như chữ Thổ quan.
2963. Ngọc và châu: Thường được dùng để chỉ cái đẹp, cái quý giá:
"Gieo ngọc trầm châu" ở đây chỉ việc Thuý Kiều trầm mình.
2967. Chiêu hồn: Gọi hồn.
Thiết vị: Đặt bài vị viết tên hiệu người chết mà thờ cúng.
2968. Đàn tràng: Đàn làm lễ giải oan.
2970. Cánh hồng: Cánh chim hồng. Cũng hiểu là phong thái nhẹ nhàng của cô gái đẹp.
2972. Tinh vệ: Tên một loài chim nhỏ, sống ở bãi bể. Theo sách Thuật dị ký: Xưa con gái vua Viêm đế chết đuối ở biển, hồn hoá thành con chim tinh vệ, hàng ngày ngậm đá ở núi Tây Sơn vứt xuống biển để hòng lấp biển. Ở đây ví Thuý Kiều trầm mình nên mượn điểm ấy.

48Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:47 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Cơ duyên đâu bỗng lạ sao,
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
2975./ Trông lên linh vị chữ bài,
Thất kinh mới hỏi: "Những người đâu ta?
"Với nàng thân thích gần xa,
"Người còn sao bỗng làm ma khóc người?"
Nghe tin nhơ nhác rụng rời,
2980./ Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra:
"Này chồng này mẹ này cha,
"Này là em ruột này là em dâu.
"Thật tin nghe đã bấy lâu,
"Pháp sư dạy thế sự đâu lạ dường!"
2985./ Sư rằng: "Nhân quả với nàng,
"Lâm-truy buổi trước Tiền-đường buổi sau.
"Khi nàng gieo ngọc trầm châu,
"Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về,
"Cùng nhau nương cửa bồ đề,
2990./ "Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.
"Phật tiền ngày bạc lân la,
"Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây."
Nghe tin nở mặt nở mày,
Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
2995./ Từ phen chiếc lá lìa rừng,
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây.
Rõ ràng hoa rụng hương bay,
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Minh dương đôi ngả chắc rồi,
3000./ Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên!
Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên,
Bộ hành một lũ theo liền một khi.
Bẻ lau vạch cỏ tìm đi,
Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
3005./ Quanh co theo dải giang tân,
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường.
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng,
Phòng trong vội dạo sen vàng bước ra.
Trông xem đủ mặt một nhà:
3010./ Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi.
Hai em phương trưởng hòa hai,
Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa!
Tưởng bây giờ là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!



Chú giải:

2973. Cơ: Cơ trời. Duyên: duyên may. Câu này ý nói: Cơ trời xui khiến, duyên số lạ lùng.
2975. Linh vị: Bài vị thờ linh hồn người chết.
2984. Pháp sư: Tiếng đồn xưng những tăng ni, đạo sĩ cấp trên.
2985. Nhân quả: ở đây có nghĩa như là nhân duyên, duyên nợ.
2989. Cửa bồ đề: Cửa Phật.
2990. Thảo am: Chùa lợp tranh.
2991. Phật tiền: Trước bàn thờ Phật.
2999. Minh dương: Cõi tối và cõi sáng, tức âm phủ và dương gian.
3000. Cửu nguyên: Tên một xứ ở tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc) đời Xuân Thu là chỗ chôn các quan khanh và đại phu nhà Tần, người sau bèn dùng chữ cửu nguyên để chỉ mộ địa nói chung.
3005. Giang tân: Ven sông;
3011. Phương trưởng: Khôn lớn và trưởng thành.

49Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:47 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

3015./ Giọt châu thánh thót quẹn bào,
Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình!
Huyên già dưới gối gieo mình,
Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi:
"Từ con lưu lạc quê người,
3020./ "Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm!
"Tính rằng sông nước cát lầm,
"Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!"
Ông bà trông mặt cầm tay,
Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
3025./ Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,
Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
Nỗi mừng biết lấy chi cân?
Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu!
Hai em hỏi trước han sau,
3030./ Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi.
Quây nhau lạy trước Phật đài,
Tái sinh trần tạ lòng người từ bi.
Kiệu hoa giục giã tức thì,
Vương ông dạy rước cùng về một nơi.
3035./ Nàng rằng: "Chút phận hoa rơi,
"Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
"Tính rằng mặt nước chân mây,
"Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
"Được rày tái thế tương phùng.
3040./ "Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay!
"Đã đem mình bỏ am mây,
"Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa
"Mùi thiền đã bén muối dưa,
"Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
3045./ "Sự đời đã tắt lửa lòng,
"Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
"Dở dang nào có hay gì,
"Đã tu tu trót quá thì thì thôi!
"Trùng sinh ân nặng bể trời,
3050./ "Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?"
Ông rằng: "Bỉ thử nhất thì,
"Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
"Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
"Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
3055./ "Độ sinh nhờ đức cao dày,
"Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung."
Nghe lời nàng phải chiều lòng,
Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.
Một nhà về đến quan nha,
3060./ Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy.



Chú giải:

3032. Trần tạ: Bày tỏ lòng tạ ơn.
Từ bi: Thương người, chữ của nhà Phật.
3039. Tái thế tương phùng: Gặp nhau ở đời thứ hai, ý nói thân Kiều như chết đi sống lại để gặp gỡ gia đình.
3049. Trùng sinh: Đẻ lại lần thứ hai, ý nói làm cho mình sống lại. Chỉ vào ơn của Giác Duyên.
3051. Bỉ thử nhất thì: Do câu Bỉ nhất thì, thử nhất thì ý nói xưa kia là một thì, bây giờ là một thì, hoàn cảnh khác nhau không thể câu nệ được.
3052. Tòng quyền: Theo quyền biến, ý nói phải thay đổi việc làm cho thích nghi, không thể nhất nhất giữ đạo thường được.
3056. Lập am: Dựng chùa, ý nói sẽ làm ngôi chùa riêng, mời Giác Duyên về ở chung.

50Truyện Kiều - Nguyễn Du - Page 2 Empty Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat Apr 17, 2010 6:48 am

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tàng tàng chén cúc dở say,
Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.
Rằng: "Trong tác hợp cơ trời
"Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
3065./ "Gặp cơn bình địa ba đào,
"Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.
"Cũng là phận cải duyên kim,
"Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?
"Những là rày ước mai ao,
3070./ "Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
"Bây giờ gương vỡ lại lành,
"Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi.
"Còn duyên may lại còn người,
"Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
3075./ "Quả mai ba bảy dương vừa,
"Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
Dứt lời nàng vội gạt đi:
"Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
"Một lời tuy có ước xưa,
3080./ "Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều.
"Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
"Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!"
Chàng rằng: "Nói cũng lạ đời,
"Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao?
3085./ "Một lời đã trót thâm giao,
"Dưới dày có đất trên cao có trời!
"Dẫu rằng vật đổi sao dời,
"Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh!
"Duyên kia có phụ chi tình,
3090./ "Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai?"
Nàng rằng: "Gia thất duyên hài,
"Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng.
"Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
"Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương.
3095./ "Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
"Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa.
"Thiếp từ ngộ biến đến giờ.
"Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
"Bấy chầy gió táp mưa sa.
3100./ "Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn.
"Còn chi là cái hồng nhan,
"Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?
"Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
"Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
3105./ "Đã hay chàng nặng vì tình,
"Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
"Từ rày khép cửa phòng thu,
"Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
"Chàng dù nghĩ đến tình xa,
3110./ "Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.
"Nói chi kết tóc xe tơ,
"Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!"
Chàng rằng: "Khéo nói nên lời,
"Mà trong lẽ phải có người có ta!
3115./ "Xưa nay trong đạo đàn bà,
"Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,
"Có khi biến có khi thường,
"Có quyền nào phải một đường chấp kinh.
"Như nàng lấy hiếu làm trinh,
3120./ "Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
"Trời còn để có hôm nay,
"Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
"Hoa tàn mà lại thêm tươi,
"Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
3125./ "Có điều chi nữa mà ngờ,
"Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu!"
Nghe chàng nói đã hết điều,
Hai thân thì cũng quyết theo một bài.
Hết lời khôn lẽ chối lời,
3130./ Cúi đầu nàng những ngắn dài thở than.
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên,
Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là.
Cùng nhau giao bái một nhà,
Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi.



Chú giải:

3063. Tác hợp: Do chữ Kinh thi: Thiên tác chỉ hợp, ý nói duyên trời xui khiến cho Kim Trọng, Thuý Kiều gặp gỡ và kết hợp với nhau.
3065. Bình địa ba đào: ý nói những sự bất trắc trong đời người, chẳng khác gì đất bằng lại nổi sóng.
3068. Tục ngữ: Máu chảy ruột mềm, ý nói giữa bà con ruột thịt có sự tương quan mật thiết, như máu với ruột, hễ máu chảy thì ruột mềm.
3071. Gương vỡ lại lành: Dịch chữ Phá kính trùng viên. Nguyên đời Trần (Trung Quốc) Từ Đức Ngôn lấy Lạc Xương công chúa. Khi biết nước nhà sắp bị diệt, vợ chồng thế nào cũng bị phân ly, bèn đập vỡ cái gương, mỗi người giữ một nửa, dùng làm của tin để tìm gặp nhau, sau quả nhiên hai người lại nối được tình nghĩa vợ chồng. Câu này dùng điển ấy.
3075: Kinh Thi: Phiếu hữu mai, kỳ thực nhất hề... Phiếu hữu mai, kỳ thực tam hề...(Mơ rụng xuống, quả còn bảy phần..., mơ rụng xuống, quả còn ba phần) ý nói tiết xuân đã muộn nên kíp lo liệu việc hôn nhân. Ở đây Thuý Vân muốn nói Kiều vẫn còn vừa tuổi đi lấy chồng.
3085: Thâm giao: Giao ước với nhau một cách ân cần, cốt thiết.
3087: Vật đổi sao dời: ý nói mọi việc trên đời đều thay đổi.
3088: Câu thơ này ý nói: trước kia đã có lời thề sống chết với nhau thì dù sống, dù chết cũng phải giữ lấy lời thề ấy.
3091: Gia thất: Tả truyện có câu: Nam hữu thất, nữ hữu gia. Nghĩa là con trai có vợ, con gái có chồng. Gia thất duyên hài: Đẹp duyên vợ chồng.
3094: Câu này ý nói: Con gái lấy chồng phải như là hoa còn phong nhị, vầng trăng chưa khuyết, ý nói trinh tiết còn nguyên vẹn.
3096: Đuốc hoa: Câu này ý nói: Nếu trinh tiết còn nguyên thì đêm hợp hôn mới không hổ thẹn.
3097: Ngộ biến: Gặp phải tai biến.
3104: Trần cấu: Bụi nhơ.
3110: Cầm sắt: Kinh thi: Thê tử hảo hợp như cổ sắt cầm. (Vợ con hòa hợp như gảy đàn sắt, đàn cầm). Người sau bèn dùng hai chữ cầm sắt để chỉ tình vợ chồng.
Cầm cờ: Khi bầu bạn gặp nhau thường gảy đàn, đánh cờ làm vui, cho nên người ta thường dùng hai chữ cầm kỳ để chỉ tình bạn hữu. Câu này ý nói: Nên đem tình vợ chồng đổi làm tình bầu bạn.
3118: Quyền: Quyền biến, nghĩa là theo hoàn cảnh mà thay đổi cách xử sự. Chấp kinh: Giữ theo đạo thường, lệ thường.
3126: Chàng Tiêu: Do chữ Tiêu Lang, tiếng xưng hô của người con gái đối với tình nhân. Tình sử chép: Thôi Giao, đời Đường, có người yêu bị người ta bắt bán cho quan Liên súy. Chàng buồn rầu làm bài thơ, trong có câu: Hầu môn nhất nhập thâm tự hải, tòng thử Tiêu lang thị lộ thân (Cửa hầu vào rồi thấy sâu như biển, từ đấy chàng Tiêu là người khách qua đường). Câu này ý nói: Nỡ nào lại hững hờ không nhận người yêu cũ hay sao.

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 2 trong tổng số 3 trang]

Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3  Next

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết