You are not connected. Please login or register

Tây Sơn bi hùng truyện - Lê Đình Danh

3 posters

Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6  Next

Go down  Thông điệp [Trang 5 trong tổng số 6 trang]

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 41 (tt)



Lại nói về Nguyễn Huệ ở Phú Xuân, nhận được chiếu chỉ của vua Thái Đức phong làm Bắc Bình Vương cai quản từ ải Hải Vân trở ra rồi, Huệ bèn hội các tướng bàn việc nước. Huệ nói:
- Nay ta đã được tự lập riêng một cõi, không chịu sự kiềm chế của Hoàng huynh. Vậy ta phải tổ chức quân đội, các tướng phải chia binh phòng thủ các nơi, thường xuyên thao luyện quân sĩ lại giúp dân canh tác cấy cày. Ý các tướng thế nào?
Nguyễn Văn Tuyết bước ra thưa:
- Bọn hạ thần theo Chúa công dựng nghiệp cứu dân nào sá chi sinh tử hiểm nghèo. Nhưng bây giờ phải đi trấn nhậm thật chẳng an tâm.
Nguyễn Huệ cười hỏi:
- Ngày xưa Văn Tuyết một mình vác song đao thích khách Võ Vương cướp ngựa Xích kỳ không hề nao núng, sao nay đi trấn nhậm lại chẳng an tâm?
Tuyết đáp:
- Nay Chúa công tự lập riêng một cõi cùng Bệ hạ chia ranh giới ra cai trị. Bọn hạ thần theo Chúa công ở Phú Xuân, còn vợ con gia quyến chúng thần lại đang ở Quy Nhơn bảo chúng thần an tâm sao được?
Các tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ Đình Tú, Vũ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Văn Lộc cùng quỳ cạnh Nguyễn Văn Tuyết đồng thanh thưa:
- Xin Chúa công cho được đi đón gia quyến đến đây rồi sẽ lo việc nước cũng chẳng muộn gì.
Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:
- Vợ con ta cũng đang còn ở thành Quy Nhơn. Nay các tướng đã quyết lòng như thế, ta sẽ thảo thư xin Hoàng huynh cho gia quyến của bọn ta đến đây.
Nói xong Nguyễn Huệ liền viết thư sai người gấp mang vào Quy Nhơn trao cùng vua Thái Đức. Trước khi sứ giả lên đường Nguyễn Huệ căn dặn rằng:
- Ta có riêng bức mật thư ngươi hãy kín đáo mà đưa cho quan Ngự Sử Nguyễn Thung.
Sứ giả vâng lệnh mà đi.
Vua Thái Đức ở thành Quy Nhơn nhận được thư của Nguyễn Huệ, đọc xong vua đưa cho Vũ Tâm Can xem và hỏi:
- Theo ý ngươi thì thế nào.
Vũ Tâm Can đáp:
- Bắc Bình Vương và các tướng mưu toan làm phản sợ ta hại gia quyến nên mới lập kế đưa vợ con ra trước. Chi bằng ta giữ vợ con họ lại làm con tin, ắt là Bắc Bình Vương không dám cử động.
Vua Thái Đức nói:
- Ta cũng định như vậy, nhưng nếu mẫu thân ta hay được rằng ta bắt giam vợ con Nguyễn Huệ người lại quở trách ta thì làm thế nào.
Can đáp:
- Thái hậu đã già yếu, quanh năm không ra khỏi cung cấm sao biết được việc bên ngoài. Nay Bệ hạ nên cho người tâm phúc hộ vệ bên ngoài không cho ai vào thì việc chắc là không đến tai Thái hậu được.
Vua Thái Đức khen phải bèn theo kế ấy mà làm, sai quân bắt tất cả gia quyến của Nguyễn Huệ và các tướng giam lỏng một nơi. Nguyễn Thung hay tin ấy nhủ thầm rằng: Bắc Bình Vương bảo ta nếu vua bắt giam gia quyến làm con tin thì tâu lên Thái hậu. Vậy ta phải thân đến gặp Thái hậu mới được.
Nghĩ rồi bèn khăn áo mà đi. Đến cung Thái hậu quân canh chặn lại hỏi:
- Quan Ngự Sử vào cung Thái hậu có việc gì?
Nguyễn Thung đáp:
- Ngày trước khi chưa khởi binh ta và Thái hậu là chỗ hàng xóm với nhau, nay nhân đi ngang qua chợt nhớ định ghé thăm thôi mà. Các ngươi mau cho ta vào đi.
Quân canh nói:
- Thái hậu sức khỏe bất an, vua lệnh cho chúng tôi không được để ai vào.
Nguyễn Thung không biết làm sao đành lủi thủi ra về. Đến nhà chợt nghe quân vào báo có Vũ Tâm Can đến thăm. Thung mời vào. Vũ Tâm Can vào nhà hỏi Nguyễn Thung:
- Bá phụ vào thăm Thái hậu bị quân lính coi thường nên buồn bực chứ gì.
Nguyễn Thung đáp:
- Quân lính chỉ tuân theo mệnh vua cớ sao ta lại buồn bực họ.
Thung lại giật mình hỏi:
- Nhưng sao cháu lại biết việc này?
Vũ Tâm Can đáp:
- Cháu lúc nào cũng hầu hạ bên Hoàng thượng, nghe quân vào báo cùng Hoàng thượng việc bá phụ vào thăm Thái hậu nên cháu mới biết. Bá phụ gặp Thái hậu có việc gì cứ nói với cháu, cháu sẽ có cách giúp cho Bá phụ.
Nguyễn Thung nói:
- Bắc Bình Vương bảo ta tâu cùng Thái hậu nhờ Thái hậu khuyên Hoàng thượng thả gia quyến Bắc Bình Vương và các tướng về Phú Xuân. Nhưng ta không có cách gì báo cho Thái hậu hay được. Nếu Đông Định Vương còn ở Quy Nhơn ta sẽ nhờ Đông Định Vương vào bẩm với Thái hậu nhưng nay Đông Định Vương đã vào Gia Định biết phải làm sao?
Vũ Tâm Can nói:
- Việc này nào có khó gì. Bá phụ hãy viết một phong thư nói giả là của Đông Định Vương từ Gia Định gởi về cho Thái hậu. Quân canh ắt mang thư vào ngay, không nghi ngờ gì cả.
Nguyễn Thung hết kế và ngỡ Vũ Tâm Can ngay lòng nói thật, liền viết thư cầm vào nhờ quân canh trao cho Thái hậu.
*
* *
Hôm sau vua Thái Đức thiết triều cho đòi Nguyễn Thung đến hỏi:
- Lần trước có phải ngươi đã bày Thái hậu ngăn ta đem quân đánh Nguyễn Huệ. Và lần này ngươi đã bày Thái hậu bảo ta thả vợ con Nguyễn Huệ và mấy tên phản nghịch về Phú Xuân có phải chăng.
Nguyễn Thung thất sắc đáp:
- Việc này là do nơi Thái hậu, hạ thần không dám can dự.
Vua Thái Đức quăng lá thư xuống đất quát:
- Vậy lá thư này là thủ bút của ai đây. Ta vốn đã biết bụng ngươi nên cho Vũ Tâm Can bày kế lấy chứng cớ bắt tội ngươi cho được rõ ràng trước mặt trăm quan. Ngươi còn gì để nói nữa chăng!
Nguyễn Thung khóc rằng:
- Hạ thần làm thế là vì lòng trung với Bệ hạ. Xin Bệ hạ xét cho.
Vua quát hỏi:
- A dua theo thằng Huệ phản ta sao bảo là trung.
Thung đáp:
- Nếu Bệ hạ thả gia quyến thì anh em hòa thuận. Bằng không sớm muộn gì Bắc Bình Vương cũng đem quân đánh tới. Xin Bệ hạ hãy nghe lời thần mà tha cho gia quyến họ.
Vua Thái Đức cười hỏi:
- Ta có con tin trong tay, Nguyễn Huệ và đồng bọn dám động binh hay sao.
Nguyễn Thung lại khóc rằng:
- Con chim trước khi chết hót ra lời thánh thót, con người trước khi chết thường nói đúng không sai. Thần nay tất phải chết có mấy lời sau cùng xin thưa cùng Bệ hạ. Bắc Bình Vương xét việc phải làm là ích nước lợi dân thì không có việc gì mà ông ấy chẳng dám làm. Nếu Bệ hạ nghĩ rằng dùng gia quyến của họ làm con tin mà có thể kềm chế được Bắc Bình Vương thì hãy đem hài cốt của tôi mà chặt làm chín khúc.
Nói dứt lời Nguyễn Thung đâm đầu vào cột rồng vỡ sọ mà chết. Các quan trông thấy không ai dám nói lời nào. Vua Thái Đức thấy Nguyễn Thung chết rồi liền truyền bãi triều.
Vũ Tâm Can về kể chuyện Nguyễn Thung chết cho Vũ Mẫu nghe. Vũ Mẫu buồn rầu hỏi:
- Nguyễn Thung xưa cùng cha con kết nghĩa huynh đệ. Lúc cha con bị Nguyễn Nhạc xử tội chết, chính ông ấy đã xin đem thi hài cha con về quê an táng. Ông ấy là người ơn của gia đình ta sao con lại lập mưu hại chết Nguyễn Thung.
Vũ Tâm Can đáp:
- Con vẫn biết vậy nhưng Nguyễn Thung cứ giúp anh em Nhạc, Huệ giải hòa nhau. Không hại ông ấy sao ta phá được nhà Tây Sơn của Nhạc, Huệ.
Vũ Mẫu hỏi:
- Nay Nhạc đã bắt giam vợ con Huệ cùng các tướng. Vậy Nguyễn Huệ phản ứng thế nào?
Can đáp:
- Con sẽ cho người ra báo tin cùng Nguyễn Huệ, sớm muộn gì anh em họ chẳng chém giết lẫn nhau.
Vũ Mẫu lại hỏi:
- Người của ta sao ra báo tin cho Nguyễn Huệ dược.
Vũ Tâm Can đáp:
- Trước con thường kết giao với một người là anh vợ của Nguyễn Huệ, lại là chú ruột của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Khi Nguyễn Nhạc bắt gia quyến thì hắn trốn vào nhà con xin nương nhờ. Nay ta thả hắn về Phú Xuân tất hắn sẽ kể việc bắt giam gia quyến và giết chết Nguyễn Thung. Như vậy ta đã đạt mục đích mà hắn còn mang ơn ta nữa.
Vũ Mẫu vội hỏi:
- Người ấy là ai?
Can đáp:
- Hắn là Bùi Đắc Tuyên.
Nói xong Can liền quay đi sắp xếp ghe thuyền sai người tín cẩn đưa Bùi Đắc Tuyên đi trốn.
*
* *
Bùi Đắc Tuyên trốn được ra Phú Xuân xin vào yết kiến Nguyễn Huệ, kể chuyện vua Thái Đức bắt giam gia quyến và giết chết Nguyễn Thung cho Huệ và các tướng nghe. Nghe xong Huệ khóc lớn rằng:
- Thương thay Nguyễn Thung. Chính ta đã hại chết Nguyễn Thung rồi vậy. Hoàng huynh sao nỡ nhẫn tâm giết hại công thần như thế!
Trần Quang Diệu bước ra hỏi:
- Hoàng thượng khi trên người thì thi ân bố đức, cảm thấy kém người thì đố kỵ làm càn. Nay việc đã như vậy, Chúa công liệu tính làm sao?
Nguyễn Huệ gạt nước mắt đáp:
- Truyền lệnh ta, các tướng hãy chỉnh đốn binh mã theo ta vào Quy Nhơn đòi Hoàng huynh phải trả con tin.
Trần Văn Kỷ bước ra can:
- Thưa Chúa công có hai điều không nên làm việc ấy.
Huệ hỏi:
- Ấy là điều gì?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Nếu Chúa công động binh đánh Quy Nhơn, Hoàng thượng tất nổi giận mà giết hết gia quyến, ấy là một lẽ. Hai bên đánh nhau tất hao quân tổn tướng làm suy yếu nhà Tây Sơn ta, ấy là hai lẽ. Vì hai lẽ ấy nên thần cúi xin Chúa công chớ động binh.
Nguyễn Huệ nói:
- Hoàng huynh vì giận làm càn nhưng người biết rõ tánh ta không vì tình nhà mà bỏ quên việc nước ắt là không dám giết gia quyến. Lẽ thứ nhất không phải lo. Hiện nay trấn thủ Quảng Nam là Đặng Mộng Kỳ, trấn thủ Quảng Ngãi là Lê Trung. Lê Trung trước từng theo ta vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh vốn chịu ân đức của ta lại dám chống lại ta sao? Đặng Mộng Kỳ văn võ song toàn biết điều lễ nghĩa, nay ta dùng nghĩa lý mà khuyên Đặng Mộng Kỳ phải lui quân, thì chẳng lo gì đến việc phải đánh nhau. Ấy là hai lẽ! Chẳng qua ta kéo binh vào làm áp lực buộc Hoàng huynh thả con tin không được kềm chế ta mà thôi. Nếu không như thế ta mãi chịu mệnh nhỏ của Hoàng huynh thì làm sao có thể thi hành được nghĩa lớn là thống nhất sơn hà. Việc này Văn Kỷ chớ lo!
Nói xong Nguyễn Huệ hạ lệnh:
- Trần Văn Kỷ mau soạn hịch kể tội Hoàng huynh ta truyền đi khắp các phủ trước, không được chậm trễ.
Trần Văn Kỷ vâng lệnh lui ra.
Nguyễn Huệ nhìn hết các tướng một lượt rồi bảo:
- Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú lãnh năm ngàn binh trấn thủ Phú Xuân. Vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân theo đường thượng đạo đến Tây Sơn Thượng xuống đèo Mang bất ngờ đánh lấy ải Cù Mông. Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc đem năm ngàn thủy quân theo đường bể chiếm cửa biển Thị Nại và cửa Cách Thử uy hiếp mặt Đông. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân theo ta đi đường đại lộ tiến đến Quy Nhơn. Các tướng nên nhớ kỹ, khi ta kéo đến, quân Hoàng huynh tất lui về thành Quy Nhơn cố thủ, các ngươi không được chém giết, ai trái lệnh chém đầu.
Các tướng cùng bước lên lãnh lệnh. Trần Quang Diệu hỏi:
- Nếu quân Hoàng thượng kháng cự thì phải thế nào.
Nguyễn Huệ quả quyết đáp:
- Ta đã sai Trần Văn Kỷ đi trước truyền hịch khắp nơi, nay thấy binh ta đến chắc chắn các tướng của Hoàng huynh chẳng dám chống lại ta. Nếu gặp kháng cự cứ kéo quân về có gì ta cũng không bắt tội.
Nói rồi Nguyễn Huệ truyền lệnh xuất quân.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 42

Giấu mẹ hiền, vua Thái Đức bắt giam Nguyễn Lữ.
Cầu Thái hậu, Đặng Văn Long bắn Tử Cấm Thành.



Nhắc lại việc Nguyễn Huệ đem quân vào Quy Nhơn đánh vua Thái Đức.
Quân Nguyễn Huệ vượt ải Hải Vân vào đất Quảng Nam, quân tiền đồn chạy về phi báo cùng trấn thủ Quảng Nam là Đặng Mộng Kỳ. Kỳ bèn bàn với phó tướng là La Xuân Kiều rằng:
- Hoàng thượng bắt giam gia quyến của Bắc Bình Vương và các tướng theo Bắc Bình Vương ở lại Phú Xuân. Nav Bắc Bình Vương truyền hịch đến đây nói là chỉ kéo quân vào yêu cầu vua thả con tin chứ không có gì khác. Vậy theo ông ta nên xử trí thế nào?
La Xuân Kiều đáp:
- Hoàng thượng thấy uy đanh của Bắc Bình Vương lừng lẫy, sợ Bắc Bình Vương làm phản nên mới bắt giam gia quyến làm con tin. Theo tôi nếu Bắc Bình Vương có lòng tạo phản thì cứ thúc quân mà đánh cần gì phải truyền hịch trước, bọn chúng ta đâu phải là đối thủ của ông ấy!
Đặng Mộng Kỳ lại hỏi:
- Theo ông nay ta nên làm thế nào.
La Xuân Kiều đáp:
- Nay ta nên rút quân về Quảng Ngãi với Lê Trung xem thử ý Lê Trung thế nào rồi sẽ liệu mà xử sự.
Đặng Mộng Kỳ khen phải bèn bỏ Quảng Nam rút về Quảng Ngãi. Đọc tờ hịch của Bắc Bình Vương do Đặng Mộng Kỳ trao xong, trấn thủ Quảng Ngãi Lê Trung nói:
- Bọn chúng ta mà chọi với Bắc Bình Vương khác nào lấy trứng chọi đá. Bắc Bình Vương là người sống phải nghĩa phải tình ắt là không có ý hại anh, vả lại việc này do nơi Hoàng thượng mà ra. Vậy chi bằng ta hãy kéo quân về thành Quy Nhơn nói là đánh không lại Bắc Bình Vương, ắt Hoàng thượng cũng không thể bắt tội ta đrợc.
Nói rồi ba người liền bỏ Quảng Ngãi kéo quân về Quy Nhơn.
Vua Thái Đức ở trong thành Quy Nhơn ngày ấy nghe quân vào báo rằng:
- Tâu Bệ hạ, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân theo lệnh Bắc Bình Vương đem quân theo đường Thượng đạo đánh lấy ải Cù Mông. Hiện quân Trần Quang Diệu đã vây kín mặt Tây Nam.
Quân do thám mặt Đông về báo:
- Bắc Bình Vương sai Đô đốc Tuyết và Đô đốc Lộc đem thủy binh vào chiếm cửa biển Cách Thử và cửa biển Thị Nại uy hiếp mặt Đông.
Vua Thái Đức còn đang bối rối chợt quân canh lại vào báo:
- Tướng quân Đặng Mộng Kỳ trấn thủ Quảng Nam và tướng quân Lê Trung trấn thủ Quảng Ngãi đã kéo quân về thành còn đang đợi mệnh.
Vua Thái Đức truyền cho vào. Vua quát hỏi:
- Tại sao giặc đánh tới hai ngươi chưa đánh mà đã lui binh?
Lê Trung đáp:
- Tâu Bệ hạ, trước hạ thần đã từng theo Bắc Bình Vương vào Nam đánh Nguyễn nên có biết tài của ông ấy. Bọn thần không phải là đối thủ của Bắc Bình Vương, nếu chống nhau với ông ấy chỉ có bại binh mà thôi, ấy là một lẽ. Bắc Bình Vương và Hoàng thượng là anh em cật ruột, binh tướng chúng ta đều là người một nhà cả đã từng đồng cam cộng khổ sinh tử có nhau, nay chém giết lẫn nhau máu chảy ruột mềm, lòng thần không nỡ, ấy là hai lẽ. Vả lại Bắc Bình Vương truyền hịch đi các nơi rằng chỉ đem binh vào xin Hoàng thượng thả gia quyến mà thôi. Xin Hoàng thượng hãy thả gia quyến của họ ra để tránh cho trăm họ phải cảnh can qua.
Vua Thái Đức giận lắm quát hỏi:
- Ngươi có dám chắc rằng sau khi thả gia quyến, nó không làm phản ta chăng?
Lê Trung đáp:
- Nếu Bắc Bình Vương có lòng tạo phản chúng thần xin cam tâm chịu chết.
Vua Thái Đức thét quân:
- Quân bay mau bắt giam Lê Trung, Đặng Mộng Kỳ và La Xuân Kiều vào ngục. Sau khi thả gia quyến mà thằng Huệ không chịu bãi binh thì ta đem ba ngươi làm lễ tế cờ rồi sẽ xuất quân!
Quân lôi ba tướng vào ngục xong, lại có tin báo:
- Tâu Bệ hạ, Bắc Bình Vương đã đem quân vây kín bốn mặt thành. Bắc Bình Vương mời Bệ hạ lên mặt thành nói chuyện.
Vua Thái Đức liền nai nịt lên mặt thành. Thấy bốn bên gươm giáo ngời ngời, tinh kỳ phấp phới, lại thấy Nguyễn Huệ mình mặt giáp trụ, đầu đội kim khôi cưỡi voi trước trận, vua giận lắm mắng rằng:
- Thằng phản chúa phụ anh kia, hiện mẹ còn đang ở trong thành mày lại đem quân vây đánh, thật là phường bất trung bất hiếu. Mày có giỏi thì cứ đánh đi, gọi ta lên nói chuyện để làm gì.
Nguyễn Huệ chắp tay nói:
- Em vì mặc giáp trụ không thể thi lễ được, xin Hoàng huynh miễn chấp. Em kéo quân đến đây cốt gặp mặt Hoàng huynh để nói một lời, xin Hoàng huynh trao trả con tin, em lập tức lui binh.
Vua Thái Đức cười lớn mấy hồi, cười đến rơi nước mắt rồi bảo:
- Ta biết ngươi có lòng tạo phản nên mới bắt gia quyến làm con tin. Quả nhiên ta có con tin mà ngươi còn đem quân đánh tới. Nếu ta thả con tin thì ngươi giết chúa hại anh nào có ngại gì. Ngươi không ngại tiếng đời thì cứ đánh đi, phen này ta quyết liều mạng với ngươi.
Nói rồi vua lệnh các tướng canh phòng cẩn mật, súng ống sẵn sàng, cung tên nước sôi gỗ đá đầy đủ, hễ địch tấn công thì liều chết mà đánh.
Nguyễn Huệ thấy vua Thái Đức quyết lòng giữ con tin liều chết thủ thành lấy làm lo ngại lắm.
Đêm ấy trong đại bản doanh Nguyễn Huệ hết đứng lên lại ngồi xuống rồi đi quanh quẩn trong phòng thở dài não ruột. Trần Văn Kỷ thấy vậy hỏi:
- Chúa công có điều lo lắng lắm sao mà nét mặt dàu dàu như thế.
Nguyễn Huệ buồn rầu đáp:
- Ta cứ ngỡ đem quân vây thành là Hoàng huynh sợ ta quyết đánh phải thả con tin. Nào ngờ Hoàng huynh lại càng giữ con tin liều chết cố thủ. Nay việc đã lỡ chỉ còn cách gọi Nguyễn Lữ về đây mới mong khuyên được Hoàng huynh thả gia quyến của ta và các tướng ra mà thôi.
Nói rồi Nguyễn Huệ liền viết thư sai người tâm phúc cấp tốc vào Sài Côn trao cho Nguyễn Lữ.
*
* *
Nguyễn Lữ ở thành Sài Côn nhận được thư Nguyễn Huệ, đọc xong Lữ oà khóc lớn nói rằng:
- Hai anh ta sao lại đến nỗi này.
Đặng Văn Long thất kinh nói:
- Việc gì mà nhị sư huynh lại tỏ ra bi thảm thế?
Nguyễn Lữ vẫn khóc nói:
- Hoàng huynh bắt giam gia quyến của Bắc Vương huynh và các tướng trong thành Quy Nhơn. Bắc Vương huynh đem quân vây hãm kinh thành buộc Hoàng huynh phải thả con tin. Hoàng huynh vì sợ thả con tin rồi Bắc Vương huynh làm phản đánh thành nên liều chết cố thủ. Nay Bắc Vương huynh viết thư gọi ta về Quy Nhơn vào thành báo cùng mẹ ta khuyên Hoàng huynh thả hết gia quyến, Bắc Vương huynh sẽ lập tức lui binh. Ta phải kíp đi ngay.
Đặng Văn Long nói:
- Việc này rất nghiêm trọng, tôi cũng phải theo nhị sư huynh về Quy Nhơn mới được!
Nói rồi Nguyễn Lữ và Đặng Văn Long gọi quan Thái Báo tên là Phạm Văn Tham đến nói:
- Nay ta và Đặng Văn Long phải về Quy Nhơn hòa giải hai anh ta. Vậy ngươi hãy thay ta trấn thủ Gia Định Sài Côn, xong việc ta sẽ quay về.
Dặn dò Phạm Văn Tham xong, Nguyễn Lữ và Đặng Văn Long liền lên ngựa nhắm hướng Bắc trực chỉ.
Đến Quy Nhơn ra mắt Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ ôm Huệ khóc rằng:
- Anh Huệ ơi. Vì sao phải đến nông nỗi này?
Nguyễn Huệ ôm em khóc nói:
- Hoàng huynh nghi ngờ anh có lòng tạo phản nên bắt giam gia quyến của anh và các tướng trong thành. Ngự Sử Nguyễn Thung can gián, Hoàng huynh lại giết chết Nguyễn Thung. Anh bất đắc dĩ phải đem quân vây thành yêu cầu Hoàng huynh thả con tin, không ngờ Hoàng huynh quyết giữ con tin liều chết cố thủ. Anh vì tình cốt nhục không thể động can qua. Nay em hãy vào thành báo cho mẹ hay, mẹ sẽ bảo Hoàng huynh thả con tin, anh kíp kéo quân về hàn gắn tình huynh đệ, cùng lo việc quốc gia. Việc này chỉ có mình em làm được mà thôi.
Nguyễn Lữ nghe lời Nguyễn Huệ liền quay đi. Nguyễn Huệ bước theo dặn dò Nguyễn Lữ rằng:
- Khi vào được thành em chớ để lộ việc báo mẹ hay cho Hoàng huynh biết, nếu không như thế việc ắt chẳng thành.
Nguyễn Lữ vâng lời gạt nước mắt mà đi. Nguyễn Lữ một mình một ngựa đến trước cổng thành gọi lớn:
- Quân bay mau vào báo cùng Hoàng thượng có ta là Đông Định Vương Nguyễn Lữ xin vào yết kiến.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 42 (tt)



Quân canh vào báo cùng vua Thái Đức. Vua đích thân lên mặt thành xem xét, thấy quả nhiên Nguyễn Lữ đứng dưới thành không quân không tướng. Vua bèn truyền mở cổng thành rồi đích thân xuống dưới thành đón Nguyễn Lữ. Anh em gặp mặt ôm nhau mà khóc. Tướng sĩ trông thấy đều bùi ngùi rơi lệ. Vua Thái Đức hỏi Nguyễn Lữ:
- Nay em nghe lời Nguyễn Huệ đến gặp anh có gì để nói.
Lữ quỳ lạy đáp:
- Em trấn thủ Sài Côn Gia Định, nghe hai anh có việc bất hòa, dấy cuộc binh đao lòng đau như cắt vội vã về đây dập đầu can gián. Xin hỏi Hoàng huynh, anh Huệ là người trung nghĩa dày công hạn mã giúp Hoàng huynh dựng nên nghiệp lớn, sao Hoàng huynh lại bắt giam gia quyến làm con tin.
Vua Thái Đức liền hỏi:
- Nó là người trung nghĩa sao kéo quân vây thành phản chúa phụ anh?
Nguyễn Lữ đáp:
- Anh Huệ bảo em xin Hoàng huynh hãy thả con tin anh ấy sẽ lui binh.
Vua Thái Đức đang nước mắt dầm dề bỗng cười to nói:
- Em thật thà nghe lời lừa phỉnh của nó. Ta có con tin nó còn đem quân vây thành. Nếu thả con tin nó bốn mặt công thành thì làm thế nào? Em hãy về bảo nó lập tức lui binh trước, ta sẽ thả con tin sau.
Nguyễn Lữ nghĩ thầm rằng: Anh Huệ lui quân, Hoàng huynh cho rằng giữ con tin là kềm chế được anh Huệ thì lại càng không thả con tin, vậy mối bất hòa này bao giờ mới dứt. Chi bằng ta báo mẹ là hơn. Nghĩ xong bèn nói:
- Anh Huệ đã quyết ý chưa có gia quyến thì nhất định chẳng lui binh dù em có nói thế nào cũng không lay chuyển được. Vậy em xin vào vấn an mẹ, việc này do hai anh tự xử với nhau vậy.
Nói xong dợm bước toan đi. Vua Thái Đức quát:
- Quân bay mau bắt Nguyễn Lữ lại cho ta.
Võ sĩ vâng lệnh bắt Nguyễn Lữ trói lại dưới thềm.
Lữ ngạc nhiên hỏi:
- Em có tội gì?
Vua Thái Đức đáp:
- Nếu em vào gặp mẹ cho mẹ biết việc này ắt mẹ sẽ buộc ta thả con tin ra. Khi ấy nó đánh thành thì ta lấy gì chống đỡ. Bởi vậy anh tạm giam em, khi nào thằng Huệ lui binh anh sẽ thả em ra.
Nguyễn Lữ bị võ sĩ lôi đi nói với lại rằng:
- Em chỉ vào vấn an mẹ, không nói tới việc này.
Vua Thái Đức đáp:
- Em thật thà không lường được bụng dạ thằng Huệ. Việc ấy lấy gì làm chắc.
Nguyễn Lữ khóc rống lên rằng:
- Hoàng huynh ơi! Anh đã lầm rồi!
Vào ngục rồi Nguyễn Lữ cứ ngồi khóc mãi không thôi.
Thấy vua Thái Đức bắt giam Nguyễn Lữ rồi, thái giám Vũ Tâm Can nhủ thầm rằng, nay ta báo tin này cho Nguyễn Huệ, chắc chắn Huệ sẽ hạ lệnh đánh thành. Anh em nó tàn hại lẫn nhau là ta đã báo được thù cha rồi vậy.
Đêm ấy Vũ Tâm Can quấn thư quanh thân tên rồi lén lên mặt thành nhắm vào quân Nguyễn Huệ mà bắn. Quân bắt được thư đem vào dâng lên Nguyễn Huệ. Huệ đọc xong bèn hội các tướng nói:
- Nguyễn Lữ để lộ việc báo tin cho mẹ nên đã bị Hoàng huynh bắt giam. Mẹ ta tuổi đã già ở mãi trong cung, Hoàng huynh lại chẳng cho ai vào, thành ra mẹ ta không hề hay biết việc Hoàng huynh bắt giam gia quyến và ta đã đem binh vây thành. Chỉ có cách báo mẹ ta hay mới giải quyết được việc này. Vậy ai có kế gì chăng?
Mưu sĩ Trần Văn Kỷ và các tướng còn đang suy nghĩ thì Đặng Văn Long bước ra nói:
- Hạ thần có một kế có thể báo được cho Thái hậu.
Nguyễn Huệ liền hỏi:
- Kế thế nào?
Long đáp:
- Ở gần phía Đông Nam thành có một hòn núi tên là núi Long Cốt. Ở trong thành có một vòng thành nhỏ gọi là Tử Cấm Thành để cho Hoàng thượng và Thái hậu ở. Núi Long Cốt cao hơn mặt thành chừng mươi trượng, thần xin đem vài khẩu đại bác đặt trên đỉnh núi Long Cốt thì chắc chắn tầm đạn bắn đến Tử Cấm Thành. Thái hậu nghe súng nổ đạn bay ắt phải dò cho ra lẽ, thì lo gì việc không thành.
Nguyễn Huệ cả mừng khen rằng:
- Đặng Văn Long thật trí dũng song toàn, kế này rất hay. Nhưng e rằng đạn lạc ngộ nhỡ mẹ ta và Hoàng huynh có mệnh hệ nào thì hối không kịp.
Đặng Văn Long đáp:
- Hạ thần trấn thủ Gia Định nghe Phúc Ánh lẩn trốn ở Tiêm La Quốc đang cầu viện quân Pháp Lang Sa định ngày trở lại, nên đã cùng quân sĩ ngày đêm luyện tập bắn súng đại bác không sai lệch bao giờ. Thần đem đại bác lên núi Long Cốt chỉ nhắm vào mặt thành của Tử Cấm Thành mà bắn. Dinh thự nhà cửa sẽ không hề hấn gì, xin đại sư huynh chớ ngại. (Lúc bấy giờ đạn đại bác không có sức nổ công phá. Đạn chỉ bay đến mục đích như một cục sắt mà thôi).
Nguyễn Huệ nói:
- Nếu vậy thì ta theo cách ấy mà làm. Phen này tứ sư đệ đã cứu ta rồi đó.
Đặng Văn Long kéo đại bác lên núi Long Cốt hướng nòng súng vào Tử Cấm Thành, ngắm nghía xong Văn Long sai quân nạp đạn nhồi thuốc mà bắn.
Bà Thái hậu đang ở trong cung bỗng nghe súng nổ ầm ầm, đạn bay lên mặt Tử Cấm Thành tới tấp. Thái hậu sợ hỏi a hoàn:
- Con ta Đông Định Vương Nguyễn Lữ đang trấn thủ Gia Định, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang trấn thủ Phú Xuân, vậy ở thành Quy Nhơn giặc nào đánh tới.
A hoàn tâu:
- Thưa Thái hậu chúng con không được rõ.
Thái hậu bảo:
- Hãy mau đưa ta sang ngự điện hỏi vua xem.
Bọn a hoàn dìu Thái hậu ra ngoài, gặp lính tuần canh, Thái hậu hỏi:
- Giặc từ đâu đánh tới. Vua hiện đang ở nơi nào?
Quân canh đáp:
- Bắc Bình Vương đem quân vây thành đã mấy tháng. Nay Bắc Bình Vương kéo đại bác nơi núi Long Cốt bắn vào Tử Cấm Thành.
Thái hậu thất kinh liền vội vã vào ngự điện, gặp vua Thái hậu vừa khóc vừa hỏi:
- Thằng Huệ đem quân vây thành đã mấy tháng sao con không cho mẹ hay.
Vua Thái Đức thất kinh quỳ lạy đáp:
- Thưa Thái hậu, con sợ mẹ không vui nên không dám nói.
Thái hậu lại hỏi:
- Vậy thì cớ gì nó lại đem quân vây thành?
Vua không dám giấu đáp:
- Con sợ thằng Huệ làm phản nên bắt giam gia quyến của nó và các tướng ở Phú Xuân làm con tin. Quả nhiên nó làm phản đem quân đánh tới.
Thái hậu nổi giận quát:
- Thảo nào mà mày giấu nhẹm không cho ta hay. Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, việc này do nơi lòng đố kỵ của ngươi gây ra đó. Nếu nó có lòng phản chúa phụ anh thì cứ bắn cho vỡ Hoàng đế thành rồi xua quân đánh giết việc gì phải kéo đại bác lên núi Long Cốt bắn đến Tử Cấm Thành làm chi. Ta chắc là nó mượn súng đại bác để báo tin cho ta hay vậy.
Vua Thái Đức thấy mẹ giận không dám mở miệng chỉ cúi mặt làm thinh. Thái hậu bảo:
- Giờ ta lên mặt thành gặp nó, mày hãy mau vào ngục đưa Quang Toản lên mặt thành ngay.
Vua Thái Đức khóc nói:
- Con xin vâng lời mẹ dạy.
Thái hậu chống gậy lên đứng trên mặt thành. Đặng Văn Long trông thấy liền bảo quân:
- Thái hậu đã đến rồi, mau ngừng bắn.
Nguyễn Huệ lúc ấy đang cưỡi ngựa trước trận trông thấy mẹ đứng trên mặt thành mà khóc thì thất kinh hồn vía liền quăng gươm xuống ngựa, lột bỏ nón kim khôi, cởi luôn giáp trụ khấu đầu mà lạy rồi gào lớn lên rằng:
- Con bất hiếu xin cúi đầu chịu tội!
Lúc ấy vua Thái Đức vừa dẫn Nguyễn Lữ và con Nguyễn Huệ là Quang Toản mới vừa năm tuổi lên mặt thành đứng cạnh Thái hậu. Quang Toản ngây thơ kêu lớn:
- Cha ơi. Sao không về với con?
Vua Thái Đức vừa khóc vừa nói:
- Nồi da xáo thịt sao em đành lòng!
Nguyễn Huệ dưới thành ngửa mặt nhìn lên, lệ tuôn lã chã nói vọng lên rằng:
- Xin mẹ và Hoàng huynh tha cho đại tội. Bởi tại trời cao xui nên nghịch cảnh, chứ em nào có lòng phản chúa phụ anh.
Quân tướng hai bên trông thấy cảnh này không ai là không rơi nước mắt. Nguyễn Huệ đứng lên quay lại bảo quân:
- Truyền lệnh ta lập tức lui binh.
Nguyễn Văn Tuyết hỏi:
- Hoàng thượng chưa thả con tin, sao Chúa công đã vội lui binh?
Huệ đáp:
- Việc này ngươi không phải lo, đã có mẹ ta ở đó.
Trên mặt thành Thái hậu bảo vua Thái Đức:
- Con còn chờ gì mà không thả con tin ra.
Vua Thái Đức vâng lời thả hết gia quyến. Nguyễn Huệ và các tướng đem gia quyến lặng lẽ rút binh về Phú Xuân. Trước khi đi Nguyễn Huệ gọi Đặng Văn Long đến bảo:
- Nhờ trí dũng của tứ sư đệ đã hòa giải được mối bất hòa của anh em ta. Vậy Văn Long hãy mau theo Nguyễn Lữ vào trấn đất Gia Định đề phòng Nguyễn Phúc Ánh rước ngoại xâm về giày xéo nước ta.
Đặng Văn Long đáp:
- Nay hạ thần không thể vào Gia Định được nữa.
Huệ hiểu mà vẫn hỏi:
- Vì sao?
Long đáp:
- Hoàng thượng vâng lời Thái hậu mà phải cùng Đại sư huynh giảng hòa, nhưng trong lòng vẫn còn uất hận vì uy quyền bị bất phục. Nếu thần về Gia Định e Hoàng thượng không dung. Xin Đại sư huynh cho thần theo về Phú Xuân mới được vẹn toàn.
Nguyễn Huệ thở dài:
- Nguyễn Lữ là người thật thà, nếu không có Văn Long trợ giúp e rằng Nguyễn Lữ không phải là đối thủ của Nguyễn Phúc Ánh.
Văn Long nói:
- Việc đến nước này chẳng thể khác được. Vả lại theo phò Đông Định Nhị sư huynh còn có Thái Bảo Phạm Văn Tham cũng là người tài trí. Nếu sau Phúc Ánh có rước giặc ngoài về ta sẽ liệu sau.
Nguyễn Huệ không biết làm thế nào đành để Đặng Văn Long theo về Phú Xuân.
Nguyễn Huệ rút quân đi rồi, vua Thái Đức liền sai quân thả La Xuân Kiều và Đặng Mộng Kỳ về trấn thủ Quảng Nam, Lê Trung về trấn thủ Quảng Ngãi. Phần Nguyễn Lữ vì khóc nhiều quá đến nỗi máu tuôn theo nước mắt, hai mắt sưng vù nên phải tĩnh dưỡng chờ khi lành bệnh mới vào Gia Định.
Lúc các tướng La Xuân Kiều, Đặng Mộng Kỳ và Lê Trung vào bái biệt lên đường, vua Thái Đức say khướt vừa cười vừa khóc bảo:
- Ai đã đựng cờ khởi nghĩa cứu dân, dựng nên cơ nghiệp. Các ngươi được như ngày nay là nhờ ai? Vậy mà em ta nó đã phản ta rồi!
La Xuân Kiều, Đặng Mộng Kỳ và Lê Trung cùng khóc lạy rồi ra đi.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 43

Lầm Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huỳnh Đức về theo Phúc Ánh.
Trừ Nguyễn Hữu Chỉnh, Bắc Bình Vương cầu cứu Ngọc Hân.



Nhắc lại Bằng Trung Công Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long nghe tin anh em nhà Tây Sơn đánh nhau, Chỉnh cả mừng nói:
- Ngày trước khi khuyên Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt Trịnh phò Lê ta đã biết trước Nguyễn Nhạc tất đem lòng đố kỵ mà trị tội kháng mệnh của Nguyễn Huệ, thật quả không sai. Nhưng không ngờ Nguyễn Huệ xem nhẹ luân thường đạp trên đạo lý nên phản chúa phụ anh, điều này ta không lường trước được. Nay Nguyễn Huệ tất bị thiên hạ chê cười, mất lòng tin trăm họ thì dù có tài dùng binh như Tôn Ngô ngày trước cũng chẳng ích gì. Đây chính là lúc ta thu đất Nghệ An dùng sông Linh Giang chia hai thiên hạ như hai nhà Trịnh - Nguyễn trước kia thì Nguyễn Huệ chỉ còn có đất Thuận Hóa nghèo nàn chật hẹp sao sánh cùng ta được.
Con Chỉnh là Nguyễn Hữu Du hỏi:
- Cha làm thế nào thu phục được đất Nghệ An?
Chỉnh đáp:
- Trước khi đem quân ra Bắc ta có hẹn cùng hai tướng trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức khi ta chiếm được Bắc Hà, Du và Đức sẽ trở giáo theo ta đánh lại Tây Sơn. Ta đã có kế này không tốn một mũi tên hòn đạn, không những lấy được Nghệ An mà có thể thu phục Động Hải nữa là khác.
Hữu Du hỏi:
- Nguyễn Duy và Huỳnh Đức trước đã giao ước cùng ta vậy nay ta lấy đất Nghệ An là việc dễ. Nhưng làm thế nào có thể lấy được Cát Dinh, Động Hải mà không tốn một mũi tên hòn đạn.
Chỉnh kề tai Du nói nhỏ như vầy... như vầy... nghe xong Du khen:
- Cha thật là đa mưu túc trí. Nguyễn Huệ không thể bì kịp.
Nguyễn Hữu Chỉnh liền viết thư sai sứ giả đem vào Nghệ An trao cho Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức.
Nhận được thư Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Duy bàn với Nguyễn Huỳnh Đức rằng:
- Bằng Trung Công bảo ta viết thư cho trấn thủ Động Hải là Vũ Văn Nhậm, khuyên Nhậm làm phản Bắc Bình Vương rồi cùng hợp binh vào Phú Xuân đánh Bắc Bình Vương. Vậy ý ông thế nào?
Nguyễn Huỳnh Đức đáp:
- Kế này rất hay. Nguyễn Huệ vừa đánh nhau với Nguyễn Nhạc. Vũ Văn Nhậm lại là con rể của Nguyễn Nhạc tất sợ bị Nguyễn Huệ nghi ngờ sớm muộn gì cũng làm hại. Nay được liên mình với ta đánh Nguyễn Huệ lập công với cha vợ ắt phải thuận lòng.
Nguyễn Duy nghe lời ấy liền viết thư sai người tâm phúc vào Động Hải trao cho Vũ Văn Nhậm. Vũ Văn Nhậm nhận được thư của Nguyễn Duy nhủ thầm rằng: Bắc Bình Vương Hoàng Thúc là người kiệt hiệt, lại thêm các tướng đều trí dũng song toàn, dù ta liên minh cùng Nguyễn Duy và Huỳnh Đức cũng không dễ gì chống nổi ông ấy. Vả lại ta có nghe Trần Quang Diệu mở đường Thượng đạo ra đến Nghệ An. Nếu Bắc Bình Vương sai Diệu theo đường này chiếm lấy Nghệ An thì ta ở Động Hải lưỡng đầu thọ địch tiến thoái lưỡng nan ắt là phải chết. Chi bằng ta đem việc này tâu cùng Bắc Bình Vương để lấy lòng tin của ông ấy là hơn.
Nghĩ rồi liền thét võ sĩ chém đầu sứ giả, lại sai người vào Phú Xuân báo tin cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ liền bảo quân:
- Mau ra Động Hải truyền lệnh ta bảo Vũ Văn Nhậm cất quân đánh Nghệ An bắt Nguyễn Duy và Huỳnh Đức về đây cho ta.
Quân vâng lệnh đi ngay. Nguyễn Duy ở Nghệ An nghe thám mã về báo rằng:
- Vũ Văn Nhậm chém đầu sứ giả, lại vâng lệnh Bắc Bình Vương chỉnh đốn binh mã chuẩn bị tiến ra Nghệ An đánh ta. Xin tướng quân định liệu.
Nguyễn Duy thất sắc hỏi Nguyễn Huỳnh Đức:
- Nay ta phải liệu thế nào?
Huỳnh Đức đáp:
- Nay ta đã là người của Bằng Trung Công vậy ta hãy cầu ông ấy đem binh cứu viện.
Nguyễn Duy nghe lời bèn sai sứ giả cấp tốc ra Thăng Long báo cho Hữu Chỉnh hay và xin binh cứu viện.
Nhận được tin ấy Chỉnh nói với sứ giả:
- Ngươi hãy về thưa với Nguyễn Duy tướng quân rằng: việc này lộ ra là do Nguyễn Duy không kín đáo nên mới đến tai Bắc Bình Vương. Vậy Nguyễn Duy hãy tự lo lấy, việc Nghệ An không can dự gì đến ta.
Sứ giả về tâu cùng Nguyễn Duy, Duy thất kinh nói:
- Chỉnh hứa sẽ dung ta, bày ta kế liên minh cùng Vũ Văn Nhậm. Nay lại bỏ ta là cớ làm sao?
Huỳnh Đức điềm nhiên đáp:
- Vũ Văn Nhậm không dám phản Bắc Bình Vương nên mới lộ việc. Hữu Chỉnh sợ nếu cứu ta là ra mặt chống đối Bắc Bình Vương, nhỡ Bắc Bình Vương đem quân đánh ra thì không chống nổi nên mới bỏ ta.
Nguyễn Duy nổi giận quát:
- Thằng giặc Chỉnh thật là phường bất nhân bất nghĩa. Ta ít quân giữ cũng không được mà chạy theo Chỉnh cũng không xong. Vậy phải làm sao?
Huỳnh Đức làm ra vẻ bí mật đáp:
- Ta hãy còn có một con đường sống.
Duy hỏi:
- Ấy là đường nào?
Đức cười đáp:
- Ông trước là tôi của Chúa Nguyễn Định Vương, nay hãy cùng tôi trốn sang Tiêm La Quốc theo phò Chúa Nguyễn Vương Phúc Ánh. Ấy là con đường sống vậy.
Nguyễn Duy than:
- Đến nước này chỉ còn con đường ấy mà thôi.
Nói rồi Nguyễn Duy cùng Nguyễn Huỳnh Đức bỏ Nghệ An đem theo trăm quân tín cẩn xuống thuyền ra bể tìm đường sang Tiêm La Quốc.
*
* *
Đến Vọng Cát ra mắt Nguyễn Vương Phúc Ánh, Huỳnh Đức tâu:
- Tội thần là Nguyễn Huỳnh Đức ngày trước bị giặc Tây Sơn bắt ở cửa Hàm Luông, nay thoát được về đây xin ra mắt Thượng vương.
Phúc Ánh hỏi:
- Từ ngày ngươi bị bắt đến nay đã được bốn năm ở dưới trướng của giặc sao mãi đến nay mới về được.
Đức đáp:
- Hạ thần bị bắt, Nguyễn Huệ dụ hàng nhưng thần quyết chẳng nghe. Sau Huệ giao ước nếu về sau biết Thượng vương ở đâu thì đi hay ở là tuỳ ý sở cầu nên thần mới tạm hàng Nguyễn Huệ. Nay nghe Thượng vương ở Tiêm La Quốc bèn nhắc lời giao ước với Nguyễn Huệ rồi vượt biển đến đây.
Phúc Ánh chỉ Nguyễn Duy hỏi:
- Còn người này là ai?
Đức đáp:
- Đây là tướng quân Nguyễn Duy trước trấn thủ thành Trường Dục dưới thời Chúa Định Vương. Nay theo thần về phò Thượng vương.
Ánh nghiêm giọng chỉ mặt Nguyễn Duy nói:
- Ngươi là tôi của nhà Nguyễn ta, quân Trịnh đến thì theo hàng quân Trịnh, Tây Sơn đánh Trịnh thì bỏ Trịnh đầu Tây. Nay cùng đường lại theo về với ta. Loài phản phúc như ngươi để sống làm gì.
Nói rồi hô quân lôi Nguyễn Duy ra ngoài mà chém.
Võ sĩ lôi Nguyễn Duy đi xong, Phúc Ánh ngoảnh lại bảo các tướng rằng:
- Đó là kết cuộc của kẻ bất trung, các ngươi hãy lấy đó làm gương.
Nguyễn Huỳnh Đức dập đầu lạy thưa:
- Hạ thần không phải như Nguyễn Duy, xin Thượng vương xét lại.
Phúc Ánh đỡ Đức dậy an ủi rằng:
- Lòng trung của khanh ta đã biết, khanh không cần phải lo sợ. Khanh hãy nói rõ tình hình quân Tây Sơn như thế nào.
Đức đáp:
- Năm Bính Ngọ Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê diệt Trịnh đem quân ra Bắc, trong một tháng giết Trịnh Khải chiếm Thăng Long.
Phúc Ánh giật mình nói:
- Họ Trịnh binh hùng tướng mạnh lại là một nước đã nên gốc rễ hơn hai trăm năm. Vậy mà Nguyễn Huệ đem quân vào nước người chỉ trong một tháng đã diệt được họ Trịnh ư. Tài Nguyễn Huệ thật là đáng sợ. Rồi sau đó thế nào?
Huỳnh Đức đáp:
- Tâu Thượng vương, Nguyễn Nhạc thấy Nguyễn Huệ lập võ công hiển hách, uy danh lừng lẫy nên đem lòng nghi kỵ gọi về Quy Nhơn thọ tội, Huệ giận đem quân vây thành Quy Nhơn, Nhạc không chống nổi phải xin hòa. Từ ấy Nhạc phong cho Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản từ đèo Hải Vân trở ra Phú Xuân, Thuận Hóa và phong Nguyễn Lữ là Đông Định Vương cai quản từ đèo Vân Phong vào đến Gia Định, Sài Côn.
Nghe đến đây Phúc Ánh vui mừng reo lên rằng:
- Anh em Nhạc, Huệ, Lữ bất hòa chia ba lãnh thổ, Nguyễn Huệ lại trấn thủ mặt Bắc, thật là trời giúp ta rồi vậy.
Nguyễn Văn Thành xen vào nói:
- Nhưng trấn thủ Gia Định với Nguyễn Lữ còn có Đặng Văn Long. Đặng Văn Long trí dũng song toàn, ngày trước chính nó đã bắt sống Nguyễn Huỳnh Đức ở cửa Hàm Luông, sau lại chặn đường về của ta ở Rạch Gầm trên sông Tiền Giang. Gia Định còn Đặng Văn Long là còn một mối lo vậy.
Nguyễn Huỳnh Đức đáp:
- Đặng Văn Long là tay chân của Nguyễn Huệ. Nay Nhạc, Huệ bất hòa Long sợ Nhạc làm tội nên bỏ Gia Định theo về Phú Xuân với Nguyễn Huệ rồi.
Phúc Ánh lại vỗ tay giậm cẳng nói:
- Ấy thật là trời đã bày ra chuyện thằng buôn trầu Nguyễn Nhạc có tính đố tài để giúp cho ta khôi phục cơ đồ rồi vậy.
Nguyễn Huỳnh Đức bàn rằng:
- Nay Nguyễn Huệ và các tướng giỏi đều đã ở Phú Xuân cả, vậy Thượng vương nên nhân cơ hội này về nước chiêu binh mãi mã chiếm đất Gia Định khôi phục cơ nghiệp đừng bỏ lỡ thời cơ.
Phúc Ánh nói:
- Từ ngày ta cho con là hoàng tử Cảnh theo Bá Đa Lộc sang nước Pháp Lang Sa làm con tin để cầu viện đến nay đã hai năm mà chẳng thấy tin tức gì, ta thật lấy làm lo lắng. Để ta sai người đến Pháp Lang Sa liên lạc với Bá Đa Lộc xem sự thể thế nào rồi sẽ liệu sau.
Đoạn Phúc Ánh liền sai sứ giả kíp đi ngay sang nước Pháp Lang Sa tìm Bá Đa Lộc.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 43 (tt)



Nhắc lại sau khi Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức trốn đi rồi, tướng Tây Sơn trấn thủ Động Hải là Vũ Văn Nhậm kéo quân ra chiếm thành Nghệ An bỏ trống. Vào thành rồi Vũ Văn Nhậm tự đắc nói với tả hữu rằng:
- Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức mới nghe oai ta đã bỏ thành mà chạy. Nếu Bắc Bình Vương chẳng dặn trước là không được đánh ra Bắc thì ta đã kéo rốc ra Thăng Long bắt luôn Nguyễn Hữu Chỉnh cho thiên hạ biết tài.
Nói rồi Nhậm bèn sai quân về Phú Xuân báo tin thắng trận cho Nguyễn Huệ hay. Nguyễn Huệ nhận được thư báo tiệp của Vũ Văn Nhậm liền bảo với các tướng rằng:
- Nguyễn Hữu Chỉnh thật xảo quyệt. Hắn xúi Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức chống lại ta, khi lộ việc Vũ Văn Nhậm kéo quân ra đánh, hắn sợ không dám dung Nguyễn Duy nên Nguyễn Duy bất đắc dĩ phải theo Nguyễn Huỳnh Đức chạy theo phò Nguyễn Phúc Ánh.
Trần Văn Kỷ tâu:
- Dù Chỉnh có ra mặt dung túng Nguyễn Duy mà phản ta, ta cũng không phải vì cớ ấy mà cất quân đánh hắn được.
Các tướng đồng thanh hỏi:
- Vì sao ta lại không đánh Chỉnh được.
Huệ đỡ lời Trần Văn Kỷ:
- Vì Nguyễn Hữu Chỉnh đang nấp bóng phò Lê.
Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu nói:
- Thằng giặc Chỉnh mấy phen được Chúa công cứu mạng lại cho mượn quân ra tung hoành trên đất Bắc, nay ra mặt làm phản ta thật tức chết đi được.
Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:
- Nếu muốn cất quân đánh Chỉnh ta phải nhờ đến một người mới được!
Các tướng đồng thanh hỏi:
- Người ấy là ai?
Huệ đáp:
- Ấy chính là Ngọc Hân công chúa!
Nói xong Nguyễn Huệ truyền bãi triều rồi lui về hậu cung. Ngọc Hân hỏi Huệ rằng:
- Việc nước có gì hệ trọng mà phu quân buồn rầu như thế?
Huệ thở dài nói:
- Lúc trước ta vâng lệnh Tiên đế đưa cháu của nàng là Lê Duy Kỳ tên ngôi vua Chiêu Thống. Nhưng ngặt nỗi Hoàng huynh ta thình lình ra Bắc triệu về Quy Nhơn thọ tội nên ta không thể nào ở lại Thăng Long phò tá vua Lê. Bởi vậy Trịnh Bồng mới đem quân về kinh ép vua phải lập lại ngôi Chúa, phong vương cho Trịnh Bồng. Vua uất hận lấy máu viết mật thư triệu Nguyễn Hữu Chỉnh về kinh cứu giá. Chỉnh đã đuổi được Trịnh Bồng đi, nhưng Chỉnh là người kiêu ngạo tham quyền lại đi theo vết cũ họ Trịnh, lập con làm thế tử, tự ý phong hầu cho các tướng, hiếp đáp vua Lê, khiến hào kiệt bất bình nổi dậy khắp nơi, làm trăm họ thật là điêu đứng. Ta vì danh nghĩa là người của nước Tây Sơn ở Đàng Trong không thể lấy lý gì mà đem quân ra Bắc. Thấy muôn dân đói khổ lầm than nên trong lòng đau đớn mà ưu phiền là thế.
Huệ nói xong mặt mày càng ủ dột. Ngọc Hân thương lắm đến gần Huệ an ủi rằng:
- Xin phu quân chớ quá thương tâm. Thiếp có một kế có thể khiến vua Chiêu Thống viết mật chỉ vời phu quân ra cứu giá, trừ Hữu Chỉnh giúp dân.
Nguyễn Huệ lắc đầu nói:
- Lúc Hoàng huynh ra Bắc buộc ta rút binh về thì Tây Sơn ta đã thất tín với vua Lê và thiên hạ Đàng Ngoài. Vua Chiêu Thống đã không tin thì làm gì dám gọi ta về cứu giá?
Ngọc Hân ngậm ngùi đáp:
- Thiếp là công chúa nhà Lê theo chồng xa cố quốc, nay thiếp viết thư về thăm Hoàng tộc, lại ngầm sai sứ giả nói với vua thế này... thế này. Ắt vua phải tin phu quân mà vời chàng về cứu giá.
Nguyễn Huệ mừng rỡ khen:
- Nàng thật là đa mưu túc trí. Phen này dân Bắc Hà nhờ nàng mà thoát vòng loạn lạc vậy.
Ngọc Hân khiêm tốn nói:
- Việc cứu dân Bắc Hà về sau là nhờ vào tài kinh bang tế thế của phu quân. Kế mọn của thiếp có đáng kể gì?
Nói rồi Ngọc Hân liền viết thư sai người tâm phúc ra Thăng Long trao cho vua Lê Chiêu Thống.
*
* *
Sứ giả ra đến Thăng Long vào Hoàng cung xin gặp vua, quân canh liền dẫn vào dinh Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh hỏi:
- Ngươi là người ở đâu. Xin vào gặp vua có việc gì?
Sứ đáp:
- Tôi là người nhà của Ngọc Hân công chúa. Công chúa sai tôi mang thư ra dâng vua và thăm hỏi Hoàng tộc.
Chỉnh bảo:
- Phiền ngươi đưa thư cho ta xem trước thử có điều gì gian dối hay chăng?
Sứ giả vâng lời đưa thư cho Chỉnh. Chỉnh tiếp thư đọc thấy lời lẽ thăm hỏi bình thường không có ẩn ý gì, bèn bảo quân:
- Các ngươi mau lục soát khắp người hắn xem có giấu giếm gì chăng.
Quân soát xong chẳng phát hiện thấy vật gì, Chỉnh bèn trả thư cho sứ giả và nói:
- Hiện nay họ Trịnh đang cho tay chân tìm cách ám hại vua nên ta phải cẩn thận đề phòng. Ngươi đừng vì thế mà phiền lòng.
Đoạn Chỉnh cho phép sứ giả vào điện yết kiến vua Chiêu Thống. Đọc thư của công chúa Ngọc Hân xong vua Chiêu Thống hỏi sứ giả:
- Ngoài lá thư thăm hỏi này Hoàng cô còn nói gì nữa chăng?
Sứ giả đáp:
- Bắc Bình Vương và phu nhân có nhắn lời tạ lỗi cùng Bệ hạ.
Vua hỏi:
- Tạ lỗi thế nào?
Sứ đáp:
- Bắc Bình Vương bảo thần thưa cùng Bệ hạ rằng: Năm Bính Ngọ đem quân ra Bắc phò Lê diệt Trịnh, Bắc Bình Vương những muốn đóng quân ở lại giúp Bệ hạ định quốc an dân. Chẳng ngờ vua Thái Đức thình lình ra Bắc buộc Bắc Bình Vương phải rút quân về, làm cho Bắc Bình Vương mang tiếng là người thất tín. Nay Bắc Bình Vương và phu nhân bảo hạ thần nhắn lời tạ lỗi cùng Bệ hạ là do thế.
Vua Chiêu Thống lại hỏi:
- Nếu Bắc Bình Vương thật lòng sao không tự viết thư mà phải nhắn miệng. Thật là họ khinh ta quá lắm.
Sứ vội vàng đáp:
- Xin Bệ hạ chớ khá hiểu lầm. Bắc Bình Vương biết Hữu Chỉnh áp chế Bệ hạ tất phải dò xét người có liên quan nên Bắc Bình Vương không dám viết thư. Quả nhiên khi hạ thần đến đây liền bị Hữu Chỉnh kiểm duyệt thư và lục soát khắp người. Bắc Bình Vương và phu nhân không dám viết thư tạ lỗi cùng Bệ hạ là do thế.
Vua Chiêu Thống bấy giờ mừng rỡ nói:
- Nay Bắc Bình Vương đã tự lập riêng một cõi không phải chịu mệnh vua Thái Đức và thật lòng như thế, vậy ta mau viết mật chỉ cho ngươi đem về trao Bắc Bình Vương đem quân ra giúp trừ Nguyễn Hữu Chỉnh.
Sứ giả tâu:
- Nếu có mật chỉ, Bắc Bình Vương nào dám không vâng. Nhưng khi hạ thần ra về e rằng Hữu Chỉnh sẽ lục soát rồi mới cho đi. Nếu Chỉnh phát hiện ra mật thư thì nguy cho Bệ hạ.
Vua ngẫm nghĩ rồi bảo:
- Nay người của ta ra khỏi kinh thành đều bị Chỉnh kiểm soát. Vậy làm sao đưa mật chỉ cho Bắc Bình Vương được.
Sứ giả tâu:
- Phu nhân có dặn thần tâu cùng Bệ hạ kế này ắt việc sẽ thành.
Vua vội hỏi:
- Hoàng cô bày kế thế nào?
Sứ giả kề tai vua nói nhỏ:
- Bệ hạ vời Chỉnh đến nói như vầy… như vầy… ắt Chỉnh sẽ nghe lời mà đưa người của Bệ hạ vào Phú Xuân trao mật chỉ cho Bắc Bình Vương.
Vua mừng rỡ khen:
- Hoàng cô từ nhỏ đã nổi danh tài sắc vẹn toàn, nay xuất giá theo chồng mà còn lo lắng cho nước nhà. Thật đáng thương thay.
Sứ giả đi rồi Vua Chiêu Thống vời Chỉnh đến nói:
- Đất Nghệ An là nơi trọng yếu của nước ta nay Nguyễn Huệ đã lấy mất. Ta định bàn với khanh sai sứ giả vào đòi lại đất Nghệ An. Chẳng hay ý khanh thế nào.
Chỉnh nghi ngờ hỏi lại vua:
- Trước giờ không nghe Bệ hạ nói đến việc ấy. Nay bỗng dưng nảy ra ý định đòi lại đất Nghệ An là cớ làm sao?
Vua đáp:
- Lâu nay ta nghĩ Nguyễn Huệ là kẻ giảo quyệt nên ta không nói đến việc này. Nay Hoàng cô Ngọc Hân sai người tâm phúc ra nói với trẫm rằng: Năm Bính Ngọ vua Thái Đức ra Bắc buộc Nguyễn Huệ phải kéo quan về Quy Nhơn thọ tội cho nên Nguyễn Huệ đành thất tín với thiên hạ và nhà Lê ta. Bởi vậy Huệ giận mới cất quân đánh Nhạc. Nay biết Nguyễn Huệ không chịu mệnh vua Thái Đức lại thật lòng phò Lê, chắc chắn là Huệ phải trả đất Nghệ An cho ta. Vả lại, khanh sai sứ giả vào Phú Xuân đòi đất, ta sẽ cử thêm Hoàng thân Lê Duy Án nhân danh Hoàng tộc vào thăm Hoàng cô Ngọc Hân, xúi Ngọc Hân nói thêm vào. Nguyễn Huệ rất sùng ái Ngọc Hân lẽ nào chẳng bằng lòng.
Chỉnh cả mừng nói:
- Bệ hạ thật là sáng suốt. Phen này nước ta lại vẹn vẻ như xưa. Hạ thần xin theo kế ấy lập tức thi hành.
Nói xong Chỉnh từ biệt về dinh phủ sai Trần Công Xán cầm đầu sứ bộ định ngày vào Phú Xuân gặp Nguyễn Huệ.
Phần vua Chiêu Thống viết mật chỉ rồi bảo Lê Duy Án cuộn tròn vào trong thắt lưng quần mà giấu. Đoạn vua đưa Lê Duy Án qua dinh Nguyễn Hữu Chỉnh và nói:
- Hoàng thân Lê Duy Án sẽ theo sứ bộ vào Phú Xuân gặp riêng Hoàng cô Ngọc Hân, nhờ Hoàng cô nói thêm vào. Nghĩa chung và tình riêng đều thuận cả, phen này nhất định Nguyễn Huệ phải trả đất Nghệ An.
Nguyễn Hữu Chỉnh không chút nghi ngờ. Tiễn sứ đoàn đi xong, Chỉnh tươi cười hớn hở bảo Nguyễn Hữu Du:
- Lần này cái chí dùng sông Linh Giang chia đôi đất nước của cha đã thành rồi đó..

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 44

Nguyễn Hữu Chỉnh mắc mưu đòi đất Nghệ An.
Nguyễn Huệ bất đắc dĩ giết Trần Công Xán.



Nói về Trần Công Xán vào Phú Xuân gặp Nguyễn Huệ. Huệ hỏi:
- Tiên sinh đến đây có điều chi dạy bảo.
Xán đáp:
- Hạ thần vâng lệnh vua nước thần vào xin Bắc Bình Vương trả đất Nghệ An.
Nguyễn Huệ nói:
- Vua nước ngài kinh thành còn không giữ nổi để hết Trịnh Lệ và Dương Trọng Tế lộng hành rồi đến Trịnh Bồng và Hoàng Phùng Cơ áp chế nên vua phải viết mật chỉ vời Nguyễn Hữu Chỉnh về kinh cứu giá. Nguyễn Hữu Chỉnh xin lệnh của ta, ta bèn sai Chỉnh đem quân ra Bắc cứu vua Lê. Nào ngờ xong việc Chỉnh lại ra mặt cấu kết với Nguyễn Duy và Huỳnh Đức làm phản. Tội ấy ta chưa hỏi, nay hắn lại mượn tiếng vua Lê đòi đất Nghệ An. Tiên sinh hãy về tâu với vua Lê rằng: đợi ta đem binh ra chém đầu Hữu Chỉnh rồi sẽ trả luôn đất Nghệ An cho vua Lê.
Trần Công Xán hỏi:
- Năm Bính Ngọ vua nước ngài ra Bắc gặp vua thần tại điện Kính Thiên có nói rằng: Đất họ Trịnh một tấc cũng không để, đất họ Lê một tấc cũng không lấy. Nay họ Trịnh đã diệt sao còn không trả đất Nghệ An.
Nghe Xán nhắc đến vua Thái Đức, Huệ liền nói hoãn:
- Phiền tiên sinh ra nghỉ ngoài công quán, đợi ta sai người về Quy Nhơn thỉnh ý Hoàng huynh rồi mới trả lời.
Trần Công Xán ra nghỉ ngoài công quán, đêm ấy bảo với Lê Duy Án rằng:
- Nguyễn Huệ nuốt lời không muốn trả đất Nghệ An. Vậy Hoàng thân hãy vào gặp Hoàng cô Ngọc Hân nhờ người nói giúp xem sao.
Lê Duy Án liền đi ngay đến hậu cung xin vào yết kiến Ngọc Hân. Án nói:
- Hoàng thượng có mật chỉ nhờ Hoàng cô trao cho Bắc Bình Vương.
Ngọc Hân đọc mật thư xong bèn nói:
- Quả nhiên Hữu Chỉnh theo vết xe họ Trịnh áp chế nhà Lê ta. Nay Hoàng thượng viết mật chỉ vời Bắc Bình Vương về cứu giá. Vậy Hoàng thân mau ra ngoài công quán kẻo Trần Công Xán nghi ngờ, ta sẽ trao mật chỉ cho Bắc Bình Vương ngay.
Ngọc Hân đến gặp Nguyễn Huệ, khóc nói:
- Nhà Lê của thiếp đã hai trăm năm bị họ Trịnh hiếp đáp, sau nhờ phu quân đem binh ra Bắc diệt Trịnh phò Lê, những tưởng đã nắm lấy quyền hành, nào ngờ nay Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng hành áp chế vua trẻ, xin phu quân hãy vì dân vì nước ra Bắc diệt Chỉnh, ơn ấy ngàn đời thiếp chẳng dám quên.
Nói xong Ngọc Hân trao mật chỉ cho Nguyễn Huệ rồi lấy vạt áo lau nước mắt. Nguyễn Huệ cảm động an ủi Ngọc Hân:
- Nàng chớ nên buồn phiền như thế. Nay có mật chỉ của vua Lê ta mới danh chính ngôn thuận ra Bắc trừ Nguyễn Hữu Chỉnh được.
Ngọc Hân mừng rỡ thưa:
- Cảm ơn phu quân đã có lòng đoái thương đến nhà Lê của thiếp. Ơn này thiếp xin tạc dạ.
Nói xong Ngọc Hân mủi lòng khóc mãi. Nguyễn Huệ vỗ về Ngọc Hân rằng:
- Nàng hãy về cung nghỉ trước, ta còn phải đi gặp người bàn việc nước.
Ngọc Hân hỏi:
- Phu quân định đi gặp ai vào giờ này?
Huệ đáp:
- Ta đi gặp Trần Văn Kỷ.
Nói xong Nguyễn Huệ tiễn Ngọc Hân về cung rồi sang nhà Trần Văn Kỷ, vừa đến cổng đã thấy Trần Văn Kỷ xăm xăm bước ra. Huệ hỏi Kỷ:
- Đêm đã khuya tiên sinh còn đi đâu đó?
Kỷ thi lễ rồi đáp:
- Tôi định sang yết kiến Chúa công. Không ngờ Chúa công lại đến đây, nên không kịp nghênh đón. Xin Chúa công miễn chấp.
Đoạn Kỷ mời Huệ vào nhà. An toạ xong Huệ hỏi:
- Chắc có điều gì hệ trọng nên tiên sinh mới định đến tìm tôi vào đêm khuya chăng.
Văn Kỷ đáp:
- Thần nghe có sứ giả của Chỉnh vào đòi đất Nghệ An, nên định sang hỏi Chúa công liệu tính thế nào?
Nguyễn Huệ đáp:
- Nguyễn Hữu Chỉnh quả nhiên trúng kế, nghe lời Lê Chiêu Thống sai sứ vào đòi đất Nghệ An. Vua Lê mới cho Hoàng thân Lê Duy Án theo sứ bộ đem mật chỉ vời ta ra cứu giá. Nay ta có mật chỉ của vua Lê tất có chính nghĩa cất quân ra diệt Chỉnh.
Trần Văn Kỷ hỏi:
- Vậy sau khi diệt Chỉnh rồi Chúa công liệu thế nào.
Huệ đáp:
- Ta ở lại giúp vua Lê ít lâu sau rồi lại kéo quân về.
Trần Văn Kỷ ung dung nói:
- Vậy mà tôi cứ ngỡ Chúa công nửa đêm đến đây là để nói về việc truất bỏ nhà Lê.
Nguyễn Huệ mừng rỡ bảo:
- Tiên sinh thật là hiểu ta đó.
Trần Văn Kỷ hỏi:
- Chúa công định dùng kế gì để truất nhà Lê.
Nguyễn Huệ cười đáp:
- Kế của tôi là “rung cây nhát khỉ”.
Trần Văn Kỷ cười theo, nói:
- Chúa công có chí tự cường nên mới dùng chữ Nôm là “rung cây nhát khỉ”. Kế này trong binh thư chữ Hán gọi là “Phạt thảo kinh xà” đó.
Nguyễn Huệ nắm tay Trần Văn Kỷ cười to nói:
- Tiên sinh thật là người tri kỷ của ta vậy. Nhưng việc này ta phải nói trước với Ngọc Hân mới được.
Văn Kỷ can:
- Ta phạt thảo, rung cây mà không ai biết, thì Chúa công chớ nên nói trước với công chúa làm gì. Ngộ nhỡ công chúa không bằng lòng truất bỏ nhà Lê rồi lộ việc thì làm thế nào?
Huệ trầm ngâm đáp:
- Ta đã có cách nói khiến công chúa phải bằng lòng cho ta truất bỏ nhà Lê.
Đoạn Nguyễn Huệ về hỏi Ngọc Hân:
- Vua Chiêu Thống là người như thế nào?
Ngọc Hân buồn rầu đáp:
- Nhà Lê thật là vô phước nên anh của thiếp là Duy Vỹ bị Trịnh Sâm giết chết, khiến Hoàng tôn Duy Kỳ mới kế vị ngôi vua là Lê Chiêu Thống. Chiêu Thống là người vô tài kém đức, đố kỵ nhỏ nhen. Nếu phu quân không ra tay cứu giúp, e Bắc Hà loạn lạc muôn đời.
Nguyễn Huệ lại hỏi:
- Chuyến này ta ra Bắc diệt Chỉnh xong, nếu kéo quân về thì Bắc Hà vẫn loạn. Nhược bằng đóng binh phò giúp vua tất phải tự quyền điều hành vận mệnh quốc gia thì nước mới yên được. Khi ấy e rằng vua kém tài mà muốn quyền cao lại cho ta là lộng hành thì sao. Khi ấy nàng có hiểu cho ta chăng?
Ngọc Hân lo sợ hỏi lại Huệ rằng:
- Vậy phu quân liệu tính thế nào?
Huệ trầm tư đáp:
- Ta ngày quên ăn đêm bỏ ngủ vì e rằng khi nói ra điều này nàng sẽ giận ta mà thôi.
Ngọc Hân nói:
- Thiếp với chàng nên nghĩa phu thê ấy là duyên kỳ ngộ. Lòng trung với dân hiếu với nước của chàng thiếp lại chẳng biết sao. Nay việc nên làm là thế nào chàng cứ nói ra đừng ngại ngần gì cả.
Nguyễn Huệ chậm rãi nói:
- Bấy lâu hào kiệt ở Bắc Hà chỉ mượn tiếng phò Lê, mỗi người hùng cứ một phương đánh giết lẫn nhau tranh giành danh lợi khiến trăm họ vô cùng thống khổ, lòng người chán ngán không biết đâu là thật giả. Cổ nhân có câu: Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Nay Lê Chiêu Thống bất tài kém đức sao đem được thái bình về cho trăm họ. Vận mệnh của nhà Lê đã hết, muốn thống nhất sơn hà dựng đời thịnh trị chỉ có cách duy nhất là truất phế nhà Lê mà thôi.
Nguyễn Huệ nói xong, Ngọc Hân thảng thốt kêu lên:
- Đành rằng như thế, nhưng lòng dân Bắc Hà vẫn còn thương tiếc công đức của vua Lê Thái Tổ, Thái Tông. Nếu không phò Lê, phu quân lấy danh nghĩa gì kéo quân ra Bắc?
Nguyễn Huệ đáp:
- Ta ra Bắc lần này vẫn lấy danh nghĩa diệt Chỉnh phò Lê.
Ngọc Hân ngạc nhiên hỏi:
- Phu quân muốn truất bỏ nhà Lê sao lại còn lấy danh nghĩa phò Lê?
Nguyễn Huệ đáp:
- Nay ta có chiếu chỉ của vua Lê vời về kinh cứu giá trình trước thiên hạ, ấy là ta có danh nghĩa phò Lê kéo quân ra Bắc đánh Chỉnh. Nhưng khi ta đánh Chỉnh vua Lê Chiêu Thống tất bỏ kinh thành mà chạy không dám ở ngôi vua, ấy là ta truất bỏ nhà Lê vậy.
Ngọc Hân lấy làm lạ hỏi:
- Nghe quân ta đem mật chỉ diệt Chỉnh phò Lê kéo quân ra Bắc, thì vua Lê phải ở kinh thành đón quân ta, cớ gì phải bỏ chạy.
Nguyễn Huệ đáp:
- Ta dùng kế “Phạt thảo kinh xà” thì đuổi vua Chiêu Thống bỏ nước mà chạy, còn đối với thiên hạ ta vẫn được tiếng phò Lê. Chỉ e rằng truất bỏ nhà Lê nàng sẽ oán ta mà thôi.
Ngọc Hân gạt nước mắt nói:
- Việc làm của phu quân là vì dân vì nước, thiếp dù thương tiếc cơ nghiệp tổ tiên cũng không thể oán phu quân được. Nhưng thiếp vẫn chưa hiểu thế nào là kế “Phạt thảo kinh xà”?
Nguyễn Huệ kề tai Ngọc Hân nói:
Ta cứ làm như vầy... như vầy... tất vua Lê Chiêu Thống phải sợ mà trốn khỏi kinh thành.
Ngọc Hân lại hỏi:
- Nhưng Trần Công Xán và Lê Duy Án là người vô tội.
Nguyễn Huệ phân trần rằng:
- Muốn đem giang san quy về một mối, cứu muôn dân Đàng Ngoài khỏi cảnh lầm than thì phải hy sinh Lê Duy Án và Trần Công Xán. Nếu làm thế nàng có cho ta là người sâu hiểm hay chăng.
Ngọc Hân bùi ngùi đáp:
- Phu quân là người đức cả tài cao, quang minh chính đại. Trước tha mưu sĩ Nguyễn Đăng Trường về với Định Vương, sau thả Nguyễn Huỳnh Đức theo cùng Phúc Ánh. Nay phu quân vì dân vì nước, bất đắc dĩ phải làm như thế thiếp sao dám cho chàng là người hiểm độc. Tuy là việc nên làm, nhưng những giọt nước mắt này là vì thương tiếc cơ nghiệp của tổ tiên. Xin phu quân rộng xét.
Nguyễn Huệ cả mừng nói:
- Truất bỏ nhà Lê, ta thật là khó xử nên mới đem ra bàn trước với nàng. Cảm ơn nàng đã thấu được lòng ta.
Đoạn Nguyền Huệ âu yếm lấy khăn lau nước mắt cho Ngọc Hân. Hai người mặt nhìn mặt, tay nắm tay dìu nhau vào phòng trong tâm sự hàn thuyên.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 44 (tt)



Nói về Trần Công Xán hôm ấy đi dạo quanh phố rồi vê công quán lo lắng hỏi Lê Duy Án rằng:
- Hoàng cô Ngọc Hân hứa với ông thế nào mà ta nghe khắp kinh thành bàn tán xôn xao rằng Bắc Bình Vương đã sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đem năm ngàn binh mã ra Nghệ An hợp cùng Vũ Văn Nhậm đánh Thăng Long phò Lê diệt Chỉnh. Vậy ông mau vào Hậu cung hỏi Hoàng cô xem sự thể thế nào?
Lê Duy Án đi một hồi rồi về báo:
- Quân canh bảo Hoàng cô đang ở Vương phủ với Bắc Bình Vương, không có nơi hậu cung.
Trần Công Xán lòng nóng như lửa đốt, bèn nói:
- Vậy ta phải vào Vương phủ diện kiến Bắc Bình Vương hỏi cho ra lẽ mới được.
Nói xong khăn áo vào chầu. Gặp Huệ, Xán hỏi:
- Việc vua của thần xin lại đất Nghệ An, Đại Vương liệu tính thế nào?
Huệ cười hỏi lại Xán:
- Tiên sinh vào đây đòi đất là theo mệnh vua hay Hữu Chỉnh?
Xán đáp:
- Xưa nay thần chỉ theo mệnh vua.
Huệ ôn tồn hỏi:
- Tiên sinh theo mệnh vua, vậy tại sao vua viết mật chỉ vời ta ra cứu giá trừ Nguyễn Hữu Chỉnh tiên sinh lại không biết.
Xán thản nhiên đáp:
- Xin Đại Vương đừng cậy thế hiếp người. Phàm làm việc gì cũng phải có chứng cứ hẳn hoi, chớ nghe lời xàm tấu.
Nguyễn Huệ đưa tờ mật chỉ của vua Chiêu Thống cho Xán rồi hỏi:
- Tiên sinh hãy nhìn cho rõ, đây chăng phải là thủ bút của vua sao? Dấu ấn này chẳng phải của triều đình nhà Lê sao. Vậy đây là chứng cứ hay lời xàm tấu?
Trần Công Xán sững sờ nhìn đăm đăm vào tờ mật chỉ, rồi bình tĩnh nói:
- Vua thần không có ý đòi đất Nghệ An. Vậy thần xin được về nước.
Huệ cười bảo:
- Nay ta đang sắp đặt binh mã ra đánh Chỉnh nếu tiên sinh về thì lộ việc quân cơ. Thôi, ta tạm giữ tiên sinh ở lại Phú Xuân, chờ lấy đầu Hữu Chỉnh xong sẽ cho tiên sinh về nước.
Trần Công Xán quả quyết nói:
- Nếu không được về nước Trần Công Xán này chỉ có chết mà thôi.
Nguyễn Huệ lại cười rằng:
- Ta nói đùa để thử lòng tiên sinh, quả nhiên ông là người trung nghĩa. Đêm nay ta sắp sẵn ghe thuyền, ngày mai sẽ sai người đưa tiên sinh cùng sứ đoàn về nước.
Khi đoàn thuyền đi đến vùng biển thuộc phủ Nghệ An, viên đô đốc Tây Sơn chỉ huy quân hộ tống gọi vài tên thuộc hạ đến bảo:
- Các ngươi mau lặn xuống biển đến đục thuyền Lê Duy Án và Trần Công Xán.
Quân xây Sơn vâng lệnh lập tức thi hành. Trần Công Xán và Lê Duy Án đang ở trong khoang, bỗng nước từ dưới đáy thuyền phun lên ào ào. Thuyền từ từ chìm xuống. Trần Công Xán tức tối vỗ đùi nói lớn:
- Nguyễn Huệ vì sợ lộ việc quân đã giết bọn ta trên đường về rồi vậy.
Lê Duy Án kinh hãi bảo:
- Không lý nào có việc ấy được, chắc do thuyền bị thủng mà thôi. Ta mau ra ngoài gọi thuyền hộ tống đến cứu.
Nói xong liền vội vã ra khỏi khoang thuyền gọi lớn:
- Các ngươi mau mau đến cứu ta.
Quân Tây Sơn chỉ nhìn mà không cứu. Nước tràn vào mỗi lúc một nhiều. Nước đã ngập hết lòng thuyền, Lê Duy Án vừa khóc vừa gào lên rằng:
- Nếu ta mất mạng, Bắc Bình Vương sẽ lấy đầu các ngươi ngay.
Viên đô đốc Tây Sơn cười to nói:
- Ngài có uất thì xuống Diêm vương mà kiện.
Lúc ấy nước đã đến thắt lưng, Trần Công Xán hướng mặt về phía Bắc lạy ba lạy rồi quay lại bảo Lê Duy Án:
- Được vì nước mà chết ông còn uất nỗi gì mà gào lên như thế?
Lê Duy Án hoảng loạn nói:
-Ta đem mật chỉ của Hoàng thượng vời Nguyễn Huệ về kinh diệt Chỉnh. Vậy cớ gì Nguyễn Huệ lại giết ta?
Nước đã ngập hết con thuyền, Trần Công Xán ngước mặt tránh sóng tràn vào mui rồi hét lên:
- Vậy Nguyễn Huệ giết ta đã đành, cớ gì lại giết cả ngươi.
Lê Duy Án dùng hết sức bình sinh ôm cột buồm leo lên khỏi làn nước gào khóc rằng:
- Nếu không đem quân diệt Chỉnh phò vua cũng chẳng can cớ gì phải giết chết ta.
Dứt lời Lê Duy Án và Trần Công Xán theo con thuyền chìm xuống biển sâu. Viên đô đốc Tây Sơn gọi mấy tên quân đến bảo:
- Các ngươi mau lội vào bờ lựa chỗ đông người phao tin này lên cho khắp nơi được biết.
Đoạn viên đô đốc Tây Sơn quay về tâu cùng Nguyễn Huệ. Huệ gọi Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đến bảo:
- Văn Sở đem thủy binh, Văn Lân đem bộ binh đến Nghệ An hợp cùng Vũ Văn Nhậm cứ y như trong thư ta dặn mà làm.
Sở và Lân lãnh mệnh đi ngay.
*
* *
Nhắc lại vua Lê Chiêu Thống và Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long ngày ấy đang đàm đạo trong trướng nghe quân vào báo:
- Tâu Bệ hạ, quân Tây Sơn lội vào bờ đến ranh giới đất Nghệ An và Thanh Hóa hô lên rằng: Sứ đoàn trở về nước bị bão đánh chìm thuyền đều chết hết cả. Quan trấn thủ Thanh Hóa sai thần về cấp báo.
Nguyễn Hữu Chỉnh giật mình nói:
- Nguyễn Huệ làm thế là có ý gì?
Vừa dứt lời quân thám mã thứ hai hớt hải chạy vào báo:
- Tâu Bệ hạ, tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân thống lĩnh một vạn binh tiến đánh Thanh Hóa. Tướng quân trấn thủ Lê Duật tử trận.
Chỉnh nghe qua như sét đánh ngang mày, nhưng cố giữ bình tĩnh nói:
- Như vậy Nguyễn Huệ đã lợi dụng tình chồng vợ bảo Hoàng cô nói gạt Bệ hạ là hắn thực bụng phò Lê rồi bất ngờ tiến đánh. Thần phải lập tức vào Thanh Hóa chống giặc mới được. Những tưởng đòi được đất Nghệ An nào ngờ lại mất luôn Thanh Hóa.
Đoạn Chỉnh hỏi tên quân rằng:
- Trước khi ra trận Lê Duật có nói gì chăng.
Tên quân đáp:
- Khi nghe quân Tây Sơn tiến đánh, Lê tướng quân có nói rằng: “Biết lòng người thì dễ, biết tài người mới là việc khó. Ta không biết tài bằng Trung Công vậy!”
Hữu Chỉnh than:
- Ta lại không biết tài Nguyễn Huệ vậy. Rồi Lê Duật ra trận thế nào?
Tên quân đáp:
- Lúc ấy có người khuyên Lê tướng quân bỏ thành Thanh Hóa lui về giữ ải Tam Điệp. Lê tướng quân bảo: Ta đã hứa với Bằng Trung Công là thà bỏ mạng không bỏ đất, nay bỏ thành mà chạy còn mặt mũi nào nhìn ai được nữa. Khi bị quân Tây Sơn vây, Lê tướng quân đâm cổ mà chết.
Nghe xong Chỉnh vừa đi vừa ứa nước mắt than:
- Thương thay lê Duật. Và ta không biết tài Nguyễn Huệ mà đã hại chết ngươi rồi!
Chỉnh đi rồi vua Chiêu Thống gọi Phan Lê Phiên đến bảo:
- Nguyễn Huệ bảo Hoàng cô lừa ta viết mật chỉ vời Huệ về kinh cứu giá. Có mật chỉ rồi hắn lại giết sứ của ta là cớ làm sao?
Phan Lê Phiên đáp:
- Việc này bởi do Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền nên Nguyễn Huệ mới thừa cơ dùng ly gián kế. Hắn muốn cướp nước ta mà không có cớ gì, nên mới lừa Hoàng cô Ngọc Hân đem tình nhà gạt Bệ hạ để hắn có mật chỉ của Bệ hạ. Được danh chánh ngôn thuận để xuất quân rồi hắn lại giết chết Trần Công Xán và Lê Duy Án, thật rõ là lòng gian dối. Việc đến nước này chỉ trông chờ vào tài dùng binh của Hữu Chỉnh mà thôi.
Vua Chiêu Thống hỏi:
- Ngộ nhỡ Chỉnh bại trận thì sao.
Phiên đáp:
- Thì ta phải bỏ Hoàng cung mà chạy. Nếu ở lại trước sau gì Nguyễn Huệ cũng hại đến Bệ hạ.
Vua tức tối đấm ngực kêu lên:
- Nguyễn Huệ lừa ta. Nguyễn Huệ lừa ta!

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 45

Nguyễn Hữu Chỉnh háo danh mà thiệt mạng.
Vũ Văn Nhậm hám lợi phải mất đầu.



Nhắc lại Nguyễn Hữu Chỉnh về dinh phủ gọi con là Nguyễn Hữu Du và tướng là Nguyễn Như Thái đến bảo:
- Hai người lãnh một vạn quân mau mau vào chiếm giữ đèo Tam Điệp. Nếu để quân Tây Sơn lấy mất thì binh ta thất thế. Ta sẽ gọi Nguyễn Cảnh Thước ở Kinh Bắc và Nguyễn Viết Tuyển ở Tây Sơn về hợp quân rồi đem đại binh theo tiếp ứng.
Nguyễn Hữu Du cười bảo Chỉnh:
- Cha cứ an tâm ăn ngon ngủ yên. Con đi phen này sẽ lấy đầu Vũ Văn Nhậm về nộp dưới trướng.
Nói xong liền xuất quân. Nguyễn Hữu Du và Nguyễn Như Thái kéo quân vừa vượt Sông Vị Hoàng, xảy quân thám mã về báo:
- Thưa Thế tử, quân Tây Sơn đã chiếm đèo Tam Điệp hiện đang tiến cách quân ta chừng trăm dặm.
Nguyễn Hữu Du thất kinh nói:
- Quân Tây Sơn thế mạnh lại chiếm đèo Tam Điệp, chi bằng ta lui về bờ Bắc sông Vị Hoàng, dùng sông này làm hào chống nhau với giặc là hơn.
Nguyễn Như Thái bàn:
- Quân ta vừa mới vượt sông mà tiến, nghe giặc đến lại vượt sông mà lùi sao khỏi mất đi nhuệ khí. Theo tôi nhân lúc này ta bày trận Bối thủy quay lưng xuống sông mà chống nhau với giặc.
Nguyễn Hữu Du hỏi:
- Bày trận Bối thủy ngộ nhỡ thua binh chẳng phải là mình tự chặn đường về của mình sao?
Như Thái đáp:
- Quân ta một vạn, quân Tây Sơn do Phan Văn Lân làm tiên phong thống lãnh chỉ có năm ngàn, ta lại bày trận Bối thủy buộc quân ta phải liều chết mà đánh. Thế nhất định phải thắng.
Hữu Du còn e ngại nên bàn:
- Vậy ta sai quân đem chiến thuyền vận chuyển đến chỗ kín đáo giấu đi. Nếu lỡ thua binh thì dùng thuyền ấy thoát về bờ Bắc.
Nói xong hai người theo kế đã bàn mà làm.
Quân Hữu Du vừa bố trận xong, quân Tây Sơn rầm rộ kéo đến, đi đầu là tiên phong Phan Văn Lân. Nguyễn Như Thái trông thấy liền lướt ngựa đến hét lớn:
- Nguyễn Huệ hết tướng hay sao mà sai thằng thư sinh trói gà không chặt như ngươi ra trận. Mau xuống ngựa quy hàng ta sẽ tha chết.
Phan Văn Lân cả cười nói:
- Mày là đồ vô đanh tiểu tốt sao biết được oai ta. Hãy về hỏi Hữu Chỉnh xem thư sinh Đại tướng Phan Văn Lân lợi hại thế nào?
Nói xong hai bên liền giáp chiến. Quân Tây Sơn khí thế đang hăng, quân Bắc cùng đường liều chết mà đánh, tiếng hò reo vang dội. Đánh được mấy hiệp Nguyễn Như Thái cả kinh nghĩ thầm, thằng học trò này trông gầy gò ốm yếu mà sức mạnh vô cùng. Nó dùng thương lợi thế đánh xa, ta dùng đoản đao phải lừa thế đánh gần mới mong giết được nó. Nghĩ rồi chờ thương Văn Lân đâm tới, Thái dùng hết sức bình sinh hất mũi thương lên rồi hoành đao mà chém ngang hông Văn Lân. Chẳng ngờ Lân lanh lẹ bình thương đỡ lưỡi đao rồi trở đốc thương đâm Như Thái. Đốc thương đâm ngay vào miếng kính tâm trên áo giáp Như Thái mạnh đến nỗi Thái văng khỏi lưng ngựa hộc máu chết tươi. Nguyễn Hữu Du trông thấy Thái chết thì thất kinh quất ngựa mà chạy, đến bờ sông vội vã cướp thuyền sang sông về bờ Bắc. Quân sĩ thấy vậy vứt giáo quăng gươm, kẻ nào lên thuyền được thì lên, còn không bèn cởi giáp lội bộ qua sông chạy theo chủ tướng. Quân Tây Sơn đại thắng giết quân Bắc và thu lượm vũ khí rất nhiều. Phan Văn Lân thắng trận rồi bèn gò ngựa đứng nhìn dòng sông Vị Hoàng mênh mông, lại thấy trời đã tối Lân bèn bảo quân hạ trại chờ Vũ Văn Nhậm và Ngô Văn Sở đến rồi sẽ vượt sông.
Vừa lúc ấy Vũ Văn Nhậm dẫn bộ binh và Ngô Văn Sở đem thủy binh cùng đến Vị Hoàng. Vũ Văn Nhậm bàn:
- Quân do thám ta về báo rằng Chỉnh đã đem quân đến làng Bình Vọng. Từ đây đến Thăng Long đường bộ thời xa mà đường thủy thì gần. Vậy ông Sở hãy đem thủy quân theo sông Vị Hoàng tiến lên rồi bất ngờ đánh vào phía Tây thành Thăng Long. Chiếm được Thăng Long thì quân Chỉnh ở làng Bình Vọng sẽ không còn đường rút, ta và ông Lân đem đại bộ binh đánh ra ắt là bắt được Hữu Chỉnh.
Ngô Văn Sở y lệnh thống lãnh thủy quân tiến lên thượng lưu sông Vị.
*
* *
Nhắc lại Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long triệu Nguyễn Cảnh Thước về rồi bèn thống lĩnh đại binh trợ chiến cho Nguyễn Hữu Du và Nguyễn Như Thái. Đại binh đi đến làng Bình Vọng, Chỉnh quay lại hỏi Nguyễn Viết Tuyển:
- Có phải làng Bình Vọng này tục gọi là làng Bằng đó chăng?
Tuyển đáp:
- Thưa ấy chính là làng Bằng.
Chỉnh ngậm ngùi nói:
- Ngày trước ta kéo quân ra diệt Trịnh Bồng ngang ra làng Bằng có chim Phượng ra đón. Nay chim Phượng ấy ở đâu?
Chỉnh vừa dứt lời bỗng một chim Phượng hoàng bay đến đậu trên biển danh của làng. Chẳng ngờ tấm biển đề hai chữ Bình Vọng ấy lâu ngày đã mục, chim vừa đậu lên, biển liền gãy đổ tan tành. Chim hốt hoảng kêu lên ba tiếng thất thanh rồi vỗ cánh bay đi.
Nguyễn Viết Tuyển nói:
- Chim Phượng hoàng năm cũ đã ra nhưng lại đạp vỡ cổng làng Bằng e là điềm gở. Xin Bằng Trung Công liệu tính.
Nguyễn Hữu Chỉnh trong lòng hồi hộp bèn nói:
- Giờ trời đã tối truyền lệnh ta đóng quân nghỉ tạm, ngày mai lại tiếp tục hành quân.
Vừa hạ trại xong quân canh vào báo cùng Hữu Chỉnh:
- Thưa Thượng công, Thế tử thua trận chạy về xin vào ra mắt.
Chỉnh đang ăn cơm quăng đũa đứng dậy bảo:
- Mau cho con ta vào đây.
Hữu Du vào đến quỳ thưa:
- Con kéo quân vượt sông Vị Hoàng thì quân Tây Sơn tiến đánh. Con liền bày trận Bối thủy chống nhau với giặc, không ngờ quân Tây Sơn dũng mãnh quân ta đương không nổi. Nguyễn Như Thái bị Phan Văn Lân đánh chết. Con may cướp được thuyền còn mấy trăm quân chạy về xin chịu tội.
Hữu Chỉnh hỏi:
- Ai bày ngươi lập trận Bối thủy.
Hữu Du đáp:
- Thưa cha, Nguyễn Như Thái.
Chỉnh vỗ đùi than:
- Quân Tây Sơn thiện chiến, còn quân ta mới mộ, phần thua nhiều hơn phần thắng lại bày trận Bối thủy triệt đường về của mình, khiến một vạn quân ta đều chết cả. Thật là đồ bất dũng vô mưu.
Nguyễn Viết Tuyển bàn:
- Từ đây đến kinh thành không núi sông hiểm trở e rằng ta không đương nổi với giặc Tây Sơn. Chi bằng ta rút quân về Thăng Long rồi đem vua chạy lên Sơn Tây tránh thế mạnh của giặc rồi sẽ liệu sau.
Nguyễn Hữu Chỉnh nghe lời liền lệnh quân nhổ trại lui binh.
Vua Chiêu Thống ở thành Thăng Long ngày ấy nghe lòng nóng như lửa đốt, hết ra lại vào trông tin Nguyễn Hữu Chỉnh. Bỗng quân thám mã về báo:
- Tâu Bệ hạ, Bằng Trung Công thua binh chạy về thành. Hiện đã ra cửa Tây thành chạy lên Sơn Tây.
Vua thất kinh nói:
- Nguyễn Hữu Chỉnh chạy đi sao không bảo ta một tiếng.
Tên quân đáp:
- Giặc Tây Sơn đang đuổi sau lưng nên Bằng Trung Công không kịp vào yết kiến, người sai hạ thần đến báo cùng Bệ hạ.
Vua buồn rầu than:
- Đã đến nước này ta phải đem Hoàng tộc chạy lên Sơn Tây theo Nguyễn Hữu Chỉnh.
Phan Lê Phiên hầu cạnh vua can rằng:
- Việc ấy không nên.
Vua ngạc nhiên hỏi:
- Nếu không theo Hữu Chỉnh chẳng lẽ ở lại kinh thành cho Nguyễn Huệ hại ta ư.
Phiên đáp:
- Nay Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm truyền khắp thiên hạ mật chỉ phò Lê diệt Chỉnh do chính tay Bệ hạ viết ra. Vậy Bệ hạ chạy theo Chỉnh khác nào chạy vào chỗ chết.
Vua Chiêu Thống giật mình hỏi:
- Ở lại với Huệ cũng không được, theo Chỉnh cũng không xong. Vậy phải làm sao?
Phiên đáp:
- Bệ hạ nên chạy ra Kinh Bắc xuống hịch cần vương chiêu dụ quân các trấn Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang rồi đùng sông Như Nguyệt làm hào chống nhau với giặc Tây Sơn. Nếu quân ta yếu thế thì theo đường Lạng Sơn chạy sang đất Đại Thanh cầu viện vua Càn Long đem binh sang giúp tất có thể khôi phục được cơ nghiệp. Thần nay đã răng long đầu bạc không còn sức theo hầu Bệ hạ. Xin Bệ hạ bảo trọng.
Nói xong Phan Lê Phiên lạy từ biệt vua về nhà. Vua Chiêu Thống liền đem gia quyến chạy ra Kinh Bắc.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 45 (tt)



Phần Hữu Chỉnh dẫn quân ra cửa Tây thành năm dặm bỗng gặp một đạo quân Tây Sơn xông ra cản đường, đi đầu là một viên dũng tướng. Viên tướng ấy vung đại đao lướt ngựa đến hét lên:
- Phản tặc Nguyễn Hữu Chỉnh chạy đâu cho thoát. Có ta là Khổn Nghịch đại tướng quân Ngô Văn Sở đến đây.
Nguyễn Hữu Chỉnh quay lại bảo các tướng:
- Ngô Văn Sở đao pháp tinh thông. Năm Bính Ngọ ta dẫn Nguyễn Huệ ra phò Lê diệt Trịnh, chính Ngô Văn Sở một mình bắt sống hai tướng Ngô Cảnh Hoàn và Mai Thế Pháp trên sông Thúy Ái nên mới có tên là Khổn Nghịch đại tướng quân. Nay nó chặn đường rút của ta, vậy phải liều chết mà đánh mới dược.
Nói xong Chỉnh cùng Nguyễn Hữu Du, Nguyễn Viết Tuyển, Nguyễn Cảnh Thước đồng loạt xông lên. Ngô Văn Sở vẫy tay làm hiệu, đội xạ thủ lập tức bắn tên, Nguyễn Viết Tuyển và Nguyễn Cảnh Thước trúng tên độc ngã ngựa chết tươi. Bấy giờ Ngô Văn Sở mới hô quân giáp chiến. Quân Hữu Chỉnh không còn tinh thần chiến đấu, chưa đánh đã tan. Cha con Chỉnh liệu thế không xong bèn quất ngựa mà chạy. Văn Sở một mình thúc ngựa đuổi theo. Chạy một hồi cha con Hữu Chỉnh thấy Ngô Văn Sở không quân hộ vệ liền quay lại vây Văn Sở mà đánh. Ngô Văn Sở không hề nao núng vung đại đao cự chiến, khi quay bên tả chặn thương Hữu Du, lúc tràn bên hữu bạt kiếm Hữu Chỉnh. Đánh dược ba mươi hiệp Văn Sở hoành đao chém Hữu Du rơi đầu. Chỉnh chẳng còn hồn vía nào quay lưng toan chạy, Văn Sở hạ đao chém chân ngựa Hữu Chỉnh. Ngựa ngã qụy hất Chỉnh té nhào xuống đất. Văn Sở bèn trói Hữu Chỉnh đặt lên lưng ngựa rồi cắt đầu Hữu Du treo nơi cổ ngựa quay lại phía quân mình. Quân Tây Sơn trông thấy đồng thanh nói:
- Phản nghịch Nguyễn Hữu Chỉnh gặp Khổn Nghịch đại tướng quân thì chạy đâu cho thoát.
Vào thành Thăng Long, Văn Sở nộp Chỉnh dưới thềm. Vũ Văn Nhậm quát hỏi Chỉnh:
- Ngươi mượn tay Tây Sơn ta ra làm vương đất Bắc lại đem lòng bội phản Bắc Bình Vương. Tội đã đáng chết hay chưa?
Chỉnh điềm nhiên đáp:
- Ta chết đã đành, nhưng trước lúc chết ta muốn hỏi ngươi một điều.
Nhậm đáp:
- Ngươi cứ hỏi.
Chỉnh nói:
- Ta quản thúc vua Lê rất kỹ, sao vua Lê viết mật chỉ vời Nguyễn Huệ về kinh cứu giá lại lọt khỏi sự kiềm soát của ta?
Nhậm cười to đáp:
- Đến giờ này ngươi còn chưa biết mà dám kiêu ngạo tự cho mình ngang tài với Bắc Bình Vương. Tấm mật chỉ phò Lê diệt Chỉnh do Lê Duy Án trao cho Bắc Bình Vương khi theo Trần Công Xán vào đòi đất Nghệ An đó!
Nghe Nhậm nói xong, Chỉnh than dài một tiếng:
- Ta thật không sánh bằng Nguyễn Huệ vậy.
Vũ Văn Nhậm lại hỏi:
- Trước khi chết ngươi còn ân hận gì chăng?
Chỉnh đáp:
- Ta chỉ ân hận rằng lúc trước không đem quân giúp Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức giữ Nghệ An dùng sông Linh Giang làm ranh giới chia đôi thiên hạ với Nguyễn Huệ mà thôi.
Nhậm cười bảo:
- Ngươi trước lúc chết còn ngông cuồng nói lời càn rỡ. Về trí thì không biết lòng người nên mới xui ta làm phản Bắc Bình Vương. Về dũng thì hai cha con ngươi không cự nổi một đường đao của Ngô Văn Sở, thế mà dám nuôi chí chia đôi thiên hạ với Chúa ta. Người chết thật là đáng lắm. Quân đâu lôi ra ngoài chém.
Giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi, Vũ Văn Nhậm sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đi khắp các nơi dán yết thị chiêu an bá tánh, còn Nhậm đích thân đi xem xét các kho tàng ở trong kinh thành. Thấy các kho đều trống rỗng không có vật gì đáng quý, Nhậm gọi tên quản kho đến bảo:
- Năm Bính Ngọ ta theo Bắc Bình Vương ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh thấy trong kho báu vật rất nhiều. Sao nay các kho đều trống rỗng là cớ gì?
Tên quản kho của vua Lê đáp:
- Thưa tướng quân, lúc tướng quân kéo đại binh đến, vua Lê và Bằng Trung Công nghe tin đã bỏ thành mà chạy. Dân chúng trong thành thừa dịp ấy bèn kéo nhau đến phá cửa kho lấy châu báu về làm của riêng hết cả rồi.
Vũ Văn Nhậm liền quay về dinh phủ gọi tên tùy tướng tên là Trần Đường đến bảo:
- Ngươi hãy dẫn quân đi soát khắp nhà dân trong thành. Nhà nào có châu báu trong kho tịch thu hết về đây cho ta.
Trần Đường vâng lệnh dẫn quân đi.
Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đang đem quân đi dán cáo thị diệt Chỉnh phò Lên chiêu an bá tánh, bỗng một lão già từ đâu chạy đến gào khóc kêu lên:
- Quân các ngươi đi cướp bóc của dân thì dán cáo thị chiêu an bá tánh làm gì!
Sở và Lân nhìn theo hướng chỉ tay của lão già, quả nhiên thấy một toán quân Tây Sơn đang khiêng hòm châu báu thật. Phan Văn Lân liền chặn viên tiểu tướng lại hỏi:
- Các ngươi là quân nào, khiêng hòm châu báu đi đâu?
Tên tiểu tướng đáp:
- Hạ thần tên Trần Đường vâng lệnh phò mã Tiết Chế Vũ Văn Nhậm đi lục soát nhà dân lấy lại châu báu dân cướp trong kho khi kinh thành bỏ trống.
Ngô Văn Sở thất kinh nói:
- Tiết chế phò mã sao lại làm như thế. Tây Sơn ta quân pháp nghiêm minh, nếu Bắc Bình Vương nghe được ắt phải chết.
Đoạn Sở và Lân tức tốc tìm gặp Vũ Văn Nhậm. Sở nói:
- Bọn tay chân của phò mã thừa lệnh làm càn, cho quân cướp bóc của dân. Vả lại bọn ta vâng lệnh Bắc Bình Vương ra đây là vì dân không vì lợi. Tiết Chế làm thế e rằng mất chính nghĩa Tây Sơn ta.
Nhậm phật ý đáp:
- Châu báu trong kho là của vua Lê, bọn gian tà lấy đi ta sai quân lấy lại có gì là không đúng. Nếu Hoàng thúc bắt tội ta xin chịu, các ông không phải lo.
Phan Văn Lân nói:
- Nhưng dân khắp kinh thành đều bảo phò mã cậy thế là rể vua làm điều trái đạo. Xin phò mã nghĩ lại.
Nhậm không đáp lời Lân, lại bảo Trần Đường:
- Ngươi hãy dẫn quân đi khắp kinh thành, ai đặt điều nói bậy chém chết cho ta.
Nói xong Nhậm quay gót vào hậu dinh bỏ mặc Sở và Lân nơi tiền sảnh. Về bản doanh Phan Văn Lân ức uất nói với Ngô Văn Sở rằng:
- Vũ Văn Nhậm thấy bạc vàng lóa mắt, tham quá hóa sân si. Hắn cậy là phò mã khinh anh em ta quá đáng. Ta ở dưới quyền, vậy làm sao ngăn hắn đừng sách nhiễu lương dân.
Ngô Văn Sở đáp:
- Ta phải mật báo với Chúa công mới được.
Nguyễn Huệ ở Phú Xuân nhận được mật báo của Ngô Văn Sở, liền bảo tả hữu:
- Mau sai quân sắp sẵn ngàn quân cấm vệ và năm mươi thớt voi. Ta phải lập tức lên đường ra Bắc.
Trần Văn Kỷ hỏi:
- Vũ Văn Nhậm phạm vào quân lệnh, sao Chúa công không viết chiếu lệnh triệu Nhậm về trị tội, cần gì phải thân hành ra Bắc?
Nguyễn Huệ lắc đầu đáp:
- Kể từ khi ta vào vây thành Quy Nhơn buộc Hoàng huynh phải thả con tin thì Vũ Văn Nhậm đã có ý ngờ ta. Nay Vũ Văn Nhậm nắm quyền ở Thăng Long, nếu ta viết chiếu chỉ gọi Nhậm về trị tội, ta sợ rằng Nhậm sợ tội mà làm phản. Việc này nếu ta không thân hành ra Bắc ắt không xong.
Nói rồi Nguyễn Huệ liền lên đường ra Bắc.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 45 (tt)



Nguyễn Huệ đến Thăng Long đã quá nửa đêm. Đến dưới thành Huệ sai quân gọi lớn:
- Mau mở cổng thành, có Bắc Bình Vương đến!
Quân canh nhìn xuống thấy đèn đuốc sáng ngời, rõ ràng Nguyền Huệ ngồi trên bành voi oai phong lẫm liệt, bệ vệ uy nghi. Quân trong thành thất kinh vội vàng mở cổng. Vào thành rồi Huệ bảo quân:
- Các ngươi ai ở yên nơi ấy không được làm kinh động bá tánh.
Nguyễn Huệ vào dinh Vũ Văn Nhậm bảo bọn canh cửa:
- Các ngươi ai ở yên nơi ấy không được làm kinh động đến phò mã.
Quân sĩ vốn sợ uy Nguyễn Huệ, răm rắp vâng lời không đám động đậy. Nhậm lúc ấy vẫn đang ngủ say không hề hay biết. Huệ đến gần lay Vũ Văn Nhậm. Nhậm cựa mình gắt:
- Kẻ nào dám quấy rầy giấc ngủ của ta.
Nguyễn Huệ bình thản đáp:
- Thưa Tiết Chế phò mã, có Bắc Bình Vương đến.
Nhậm giật mình ngồi phắt dậy quát:
- Đứa nào dám đùa với ta thế?
Vừa dứt lời ngước lên thấy Nguyễn Huệ đứng sừng sững trước mặt, Vũ Văn Nhậm thất kinh sụp lạy:
- Cháu không biết là Hoàng thúc đến đây nên không kịp nghênh đón. Xin Hoàng thúc tha tội.
Nguyễn Huệ nghiêm giọng hỏi:
- Vũ Văn Nhậm! Ngươi có biết ta đang lo trăm công ngàn việc ở Phú Xuân lại phải cấp tốc ra Thăng Long là vì sao không?
Nhậm cúi đầu đáp:
- Thưa, cháu không được biết.
Huệ lại hỏi:
- Vậy ngươi có biết ai đã sai quân đi cướp bóc của nhân dân trong thành Thăng Long chăng?
Vũ Văn Nhậm sợ hãi đáp:
-Ấy là châu báu trong kho của vua Lê, dân chúng trộm đi nên cháu mới sai quân lấy lại sung vào công quỹ.
Lúc ấy Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân vừa đến, thi lễ với Huệ xong, Sở thưa:
- Chúa công nửa đêm đến đây chúng thần không được biết. Xin Chúa công thứ tội!
Nguyễn Huệ liền bảo:
- Hai ngươi mau đi bắt hết tòng phạm của Vũ Văn Nhậm về đây cho ta.
Rồi quay sang Nhậm, Huệ hỏi:
- Vậy số châu báu đang cất tại kho nào?
Nhậm run rẩy chỉ vào mấy chiếc hòm ở góc phòng, đáp:
- Cháu còn cất nơi đây chưa kịp đưa vào kho.
Nguyễn Huệ nạt:
- Quân bay mau trói Vũ Văn Nhậm lại cho ta.
Võ sĩ xông vào trói Nhậm. Nhậm cố van nài:
- Xin Hoàng thúc nghĩ tình Phụ vương mà tha cho cháu một lần.
Lúc ấy Phan Văn Lân vừa giải Trần Đường đến. Huệ bảo Vũ Văn Nhậm và Trần Đường rằng:
- Ngày mai ra trước dân, dân bảo tha thì ta tha, dân bảo chém thì ta chém.
Đoạn Huệ sai quân lập công đường ngoài dinh phủ chờ trời sáng sẽ đem Vũ Văn Nhậm ra trước dân mà xử. Sáng hôm sau nhân dân ở thành Thăng Long nghe tin rủ nhau đến xem, người đông nghìn nghịt. Vũ Văn Nhậm và Trần Đường bị trói quỳ trước án. Nguyễn Huệ hướng về phía dân cất tiếng sang sảng hỏi:
- Bá tánh hãy nhìn cho rõ, kẻ nào đã dẫn quân đi cướp của nhân dân trong thành?
Một cụ già bước ra nói:
- Thưa Bắc Bình Vương, tôi thay mặt bá tánh trong thành xin thưa rõ mọi chuyện.
Nguyễn Huệ kính cẩn khích lệ:
- Sự thật thế nào xin cụ cứ nói ra.
Cụ già chỉ mặt Trần Đường nói:
- Chính vị tướng quân này dẫn quân đi lấy cướp vàng bạc châu báu của dân.
Quay sang Trần Đường, Huệ hỏi:
- Trần Đường! Có đúng là ngươi đã dẫn quân đi cướp của dân chăng?
Trần Đường hoảng sợ lạy như tế sao:
- Xin Bắc Bình Vương tha mạng, kẻ hạ thần chỉ làm theo lệnh của phò mã mà thôi.
Nguyễn Huệ lại quay sang hỏi Vũ Văn Nhậm:
- Vũ Văn Nhậm! Ngươi theo Tây Sơn ta từ lúc mới dấy binh. Vậy quân lệnh của ta, cướp của dân phải xử thế nào ngươi có biết chăng?
Vũ Văn Nhậm kinh hồn bạt vía dập đầu thưa:
- Phải xử tội chết. Xin Hoàng thúc hãy nghĩ tình Phụ hoàng mà tha cho cháu một phen.
Nguyễn Huệ nghiêm giọng nói:
- Quân pháp bất vị thân. Nếu tha cho ngươi sao an được lòng dân, sao nghiêm minh quân kỷ!
Nhậm cố van nài:
- Ngày xưa khởi binh cháu chém đầu tham quan giữa chợ cho Phụ hoàng nhậm chức Biện lại Vân Đồn. Lại có công thả Hoàng tôn Dương, xạ tiễn cứu công chúa Thọ Hương. Cháu từng theo Hoàng thúc vào Nam ra Bắc, sinh tử có nhau. Nay vì một tội nhỏ mà Hoàng thúc nỡ quên tình xưa nghĩa cũ xử cháu vào tội chết hay sao? Xin Hoàng thúc thương tình nghĩ lại!
Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:
- Ngày trước ngươi chém đầu tham quan giữa chợ, sao nay làm quan lại còn cướp của hại dân. Xạ tiễn cứu Thọ Hương được phong làm phò mã ấy là công đã được trả. Nếu người có công ai cũng cậy công làm càn như ngươi thì trăm họ sẽ ra sao? Võ sĩ đâu đem Vũ Văn Nhậm và Trần Đường ra pháp trường xử trảm.
Nhậm thấy van nài không được bèn nói cứng:
- Hạ thần có tội đã đành, nhưng thần là Phò mã rể vua. Xin Hoàng thúc giải thần về Quy Nhơn cho Phụ hoàng xử tội.
Nguyễn Huệ bảo:
- Ngươi gây tội ở Thăng Long phải xử ở Thăng Long, có tội với dân phải trước dân mà xử, không thể đem ngươi về Quy Nhơn được.
Vũ Văn Nhậm thấy Nguyễn Huệ đã quyết ý hoảng sợ khóc rống lên rằng:
- Dù sao cháu cũng là người trong nhà. Hoàng thúc hãy nể Phụ hoàng, nghĩ tình Thọ Hương mà tha cho cháu một phen.
Thấy Nhậm cuống cuồng kêu khóc, Nguyễn Huệ ứa nước mắt rồi nghiêm giọng nói gằn từng tiếng:
- Pháp luật nghiêm minh! Chém!
Nhìn võ sĩ lôi Vũ Văn Nhậm và Trần Đường đi, hai hàng nước mắt Nguyễn Huệ chảy ròng ròng. Thấy vậy Trần Văn Kỷ khuyên:
- Ấy là vì thi hành pháp luật, xin Chúa công chớ quá thương tâm.
Nguyễn Huệ lau nước mắt đáp:
- Vũ Văn Nhậm đã từng cùng ta vào sinh ra tử, lại là cháu rể của ta. Nay phạm tội chết ta không đau lòng sao được!
Rồi Nguyễn Huệ bảo dân chúng rằng:
- Trong bá tánh ai bị Vũ Văn Nhậm lấy vật gì hãy đến khai rõ cùng quan Trung thư Trần Văn Kỷ sẽ được trả lại. Nếu phát hiện người nào khai gian tội khó dung tha.
Dân chúng bảo nhau rằng:
- Bắc Bình Vương xử trị nghiêm minh, hành pháp vô tư, đến phò mã còn bị đưa ra trước dân xử tội chết. Hãy lấy đó làm gương, mất vật gì phải khai cho thật.
Nội nhật hôm ấy Trần Văn Kỷ trả lại của cải bị mất cho dân không sót một tờ hào nào cả.
Xong việc ấy Nguyễn Huệ chia quân đi đồn trú khắp các trấn thủ ở Bắc Hà, lại truyền hịch rằng ai biết được chỗ trú ẩn của vua Lê Chiêu Thống để quân Tây Sơn đến rước vua về kinh trị vì trăm họ, thì kẻ đó sẽ được phong quan

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 46

Trần Văn Kỷ đón Ngô Thì Nhậm.
Nguyễn Huệ đuổi Đặng Trần Thường.



Lúc bấy giờ ở Thăng Long có một người tên Đặng Trần Thường. Ngày ấy nghe hịch quân Tây Sơn truyền ra, Thường nhủ thầm rằng:
- Nếu có kế rước được vua về kinh sẽ được phong quan. Vậy ta phải hỏi kế Ngô Thì Nhậm mới được.
Nghĩ rồi bèn lên ngựa đến phủ Thái Bình gặp Ngô Thì Nhậm. Phân ngôi chủ khách xong, Thường nói:
- Ngô huynh trước làm quan cho Chúa Trịnh sau vì tội mà đến đây ở ẩn. Nay đã đến lúc ra làm quan trở lại sao còn ở mãi trong chòi tranh chật hẹp nơi núi rừng hoang vắng như thế này.
Ngô Thì Nhậm hỏi:
- Đặng huynh nói vậy là ý thế nào?
Thường đáp:
- Vừa rồi Nguyễn Huệ ra thông báo, ai có kế rước được vua về kinh trị vì trăm họ sẽ được phong quan. Ngô huynh là danh sĩ bậc nhất Bắc Hà lại không có kế gì sao?
Nghe Thường nói xong, Nhậm hỏi:
- Nếu rước được vua về rồi, Đặng huynh sẽ làm quan với vua Lê hay với nhà Tây Sơn?
Thường đáp:
- Nguyễn Huệ phò Lê xong ít lâu sau lại rút quân về thì ta vẫn làm quan với nhà Lê vậy.
Nhậm lại hỏi:
- Thế ngộ nhỡ lần này Nguyễn Huệ chiếm luôn Bắc Hà không rút quân về trả nước cho vua Lê thì làm thế nào.
Thường đáp:
- Nguyễn Huệ phò Lê nên mới rước vua về trị vì trăm họ, sao có việc chiếm đất Bắc Hà.
Nghe Thường nói xong, Nhậm ôm bụng cười to. Thấy Nhậm cười mãi, Thường phật ý nhưng nén lòng hỏi:
- Cớ gì Ngô huynh cười mãi thế?
Nhậm nín cười đáp:
- Tôi cười vì Đặng huynh xét việc nông cạn, đến nước này mà còn bảo Nguyễn Huệ phò Lê. Nguyễn Huệ truyền hịch tìm vua Lê tức là đuổi vua Lê đó.
Thường ngạc nhiên hỏi:
- Ngô huynh nói vậy là ý thế nào.
Nhậm hỏi lại Thường rằng:
- Đặng huynh không nghe việc Ngô Duy Án và Trần Công Xán đi sứ về bị chết chìm ngoài biển hay sao?
Thường đáp:
- Việc này tôi có nghe. Nhưng đó là Nguyễn Huệ thấy Trần Công Xán có tài nên mới giết đi, việc đó nào có liên quan gì đến việc phò Lê hay không phò Lê.
Ngô Thì Nhậm lắc đầu bảo:
- Nguyễn Huệ đang thu phục lòng nho sĩ đất Bắc cớ gì phải giết Trần Công Xán. Vả lại Trần Công Xán tài gì mà Nguyễn Huệ phải giết đi, chẳng qua Nguyễn Huệ dùng kế “Phạt thảo kinh xà” để đuổi vua Lê Chiêu Thống chạy khỏi nước mà thôi.
Thường ngạc nhiên hỏi:
- Ngô huynh nói gì tôi vẫn chưa hiểu. Kế thế nào là “Thảo phạt kinh xà”?
Nhậm đáp:
- Trần Công Xán và Lê Duy Án ngoài theo lệnh Hữu Chỉnh đi sứ vào đòi đất Nghệ An. Trong khi đó Lê Duy Án lại giấu mật chỉ của vua Lê Chiêu Thống viết vời Nguyễn Huệ về kinh cứu giá trừ Chỉnh. Có mật chỉ rồi Nguyễn Huệ lại giết Lê Duy Án là tay chân của vua Lê, khiến vua Lê hoảng sợ. Nên khi Vũ Văn Nhậm theo lệnh Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê ra đánh Chỉnh vua Lê phải bỏ Hoàng thành mà chạy trốn. Trần Công Xán cầm đầu sứ đoàn nên phải chết theo Lê Duy Án chứ Nguyễn Huệ nào cố ý giết Trần Công Xán. Ấy chính là kế “Phạt thảo kinh xà” của Nguyễn Huệ vậy.
Đặng Trần Thường cãi:
- Vô lý! Nếu muốn đuổi vua Lê thì Nguyễn Huệ cứ đem quân ra đánh không nêu nghĩa phò Lê, ắt vua Lê cũng phải bỏ kinh thành mà chạy, cần gì phải giết Lê Duy Án và Trần Công Xán.
Nhậm đáp:
- Lê Duy Án theo lệnh vua Lê đem mật chỉ cứu giá trao Nguyễn Huệ. Vậy nếu Huệ không giết Lê Duy Án làm sao gây nghi sợ trong lòng vua Lê được. Dùng kế này Nguyễn Huệ đã đuổi được vua Lê lại có chính nghĩa phò Lê lấy lòng trăm họ. Nay nghe Nguyễn Huệ thông báo tìm vua Lê, vua Lê lại càng hoảng sợ mà lo chạy cho xa. Còn những kẻ sĩ như Đặng huynh cũng phải tin Nguyễn Huệ phò Lê, kể gì đến kẻ dân thường ít học. Thật là một mũi tên mà trúng hai đích vậy.
Đặng Trần Thường trầm trồ khen:
- Ấy thật là độc kế! Theo ý Ngô huynh Nguyễn Huệ là người thế nào?
Nhậm đáp:
- Theo tôi Nguyễn Huệ là một bậc anh hùng kiệt hiệt, mưu trí hơn người, xuất thân là nông dân áo vải giúp nước cứu dân dựng nên nghiệp lớn xưa nay hiếm thấy. Xét việc trị tội Vũ Văn Nhậm thật là một đấng minh quân. Cơ trời sắp đổi, vận mệnh nhà Lê đã hết, tôi định ra phò minh Chúa góp công định quốc an dân, nhưng e người đời hiểu lầm rằng mình tham danh hám lợi nên chưa biết tính sao.
Đặng Trần Thường cáo từ nói:
- Ngô huynh là Hồng Hạc chờ người ta đến đón, còn tôi chim sẻ phải tự lo kiếm ăn. Cảm ơn Ngô huynh đã chỉ cho chỗ sáng. Xin tạm biệt Ngô huynh, tôi ra làm quan với nhà Tây Sơn đây.
Rời khỏi chòi tranh Ngô Thì Nhậm, Đặng Trần Thường rong ruổi đến kinh thành. Tới nơi nghe dân chúng bảo nhau rằng:
- Bắc Bình Vương đưa Hoàng thân Lê Duy Cận lên làm Giám Quốc. Hiện Bắc Bình Vương đang ở tại hoàng cung.
Đặng Trần Thường nghĩ thầm:
- Nguyễn Huệ đang ở tại Hoàng cung ắt phải về lại tư dinh. Vậy ta cứ phục trên đường về tất gặp được Nguyễn Huệ.
Nghĩ rồi bèn đến nằm dưới gốc cây bên vệ đường. Quả nhiên thoáng chốc đã thấy Nguyễn Huệ từ Hoàng cung đi về phía mình. Chờ Huệ đến gần, Đặng Trần Thường vừa nhịp chân vừa ca rằng:
Dân nhớ ơn vua Lê.
Người đuổi vua Lê.
Lại được lòng dân.
Đời thật oai oăm!.
Kế “Phạt thảo kinh xà”.
Quả là lợi hại.
Nguyễn Huệ nghe tiếng ca giật mình hỏi Trần Văn Kỷ:
- Người này là ai mà biết kế của ta?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Bắc Hà đất rộng dân đông, danh sĩ hằng hà, kẻ hạ thần không biết được.
Nguyễn Huệ liền xuống ngựa đến gần Đặng Trần Thường thi lễ rồi hỏi:
- Cao nhân quý danh là gì. Biết rõ kế của Huệ ắt phải là nhân tài bậc nhất ở Bắc Hà?
Thường đứng dậy vái chào Nguyễn Huệ rồi đáp:
- Thần dân họ Đặng tên Trần Thường, chỉ là một kẻ hủ nho nơi đất Bắc. Kế của Chúa công ngoài thần dân ra còn có một người biết nữa là hai.
Nguyễn Huệ liền hỏi:
- Người ấy là ai?
Thường đáp:
- Đó là Ngô Thì Nhậm, người làng Thanh Oai trấn Nam Sơn, làm quan chức Đốc Đồng ở Hải Dương. Trịnh Sâm thường khen là tài học không dưới người khác. Sau vì loạn kiêu binh nên bỏ về ở ẩn. Ngô Thì Nhậm cũng biết Chúa công dùng kế “Phạt thảo kinh xà” truất bỏ nhà Lê. Nhậm định tìm gặp vua Lê Chiêu Thống khuyên vua quay về lại kinh thành ắt Chúa công vì lấy lòng dân xứ Bắc mà vẫn phải phò Lê. Nếu như thế e đại sự khó thành.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 46 (tt)



Nguyễn Huệ hỏi Đặng Trần Thường:
- Tiên sinh là người đa mưu trúc trí vậy có kế gì giúp ta chăng?
Thường đáp:
- Nay kẻ hạ thần quyết lòng bỏ chữ ngu trung ra giúp Chúa công định quốc an dân. Nếu Chúa công không chê hạ thần xin hiến một kế.
Nguyễn Huệ vui mừng nói:
- Huệ ta lúc nào cũng chiêu hiền đãi sĩ, ngưỡng mộ nhân tài. Được tiên sinh theo giúp còn hân hạnh gì hơn. Kế thế nào xin tiên sinh chỉ vẽ.
Đặng Trần Thường đáp:
- Trong lúc Ngô Thì Nhậm chưa đến tìm gặp vua Lê Chiêu Thống, ta ra tay trước là hơn.
Nguyễn Huệ kiên nhẫn hỏi:
- Thế nào là ra tay trước?
Thường đáp:
- Thần xin chỉ nơi ẩn náu của Ngô Thì Nhậm, Chúa công sai người đến giết Nhậm là xong.
Nguyễn Huệ nghe xong nói ngay:
- Xin mời tiên sinh về dinh cùng Huệ. Huệ tôi sắp xếp có chức gì phù hợp sẽ mời tiên sinh thọ chức.
Nói xong liền mời Đặng Trần Thường về cho nghỉ ngoài công quán. Đến tư dinh, Nguyễn Huệ hỏi Trần Văn Kỷ:
- Theo ý Trung thư, Đặng Trần Thường là người thế nào?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Thần xem Đặng Trần Thường không phải là người ngay. Mới gặp Chúa công đã bày chuyện hại người. Người này chớ nên dùng.
Nguyễn Huệ gật đầu nói:
- Ta nghe Ngô Thì Nhậm là danh sĩ bậc nhất ở Bắc Hà, trong lòng ngưỡng mộ từ lâu. Nay Trung thư có thể đến thuyết Nhậm theo giúp Tây Sơn ta được chăng?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Thần nghe Ngô Thì Nhậm tài hoa lỗi lạc, là kẻ thức thời, nay xin đến thuyết nhất định Nhậm sẽ theo về với Chúa công.
Hôm sau Ngô Thì Nhậm theo Trần Văn Kỷ đến yết kiến Nguyễn Huệ. Huệ mời ngồi hỏi:
- Ta nghe tiên sinh là bậc kỳ tài trong thiên hạ, vẫn hằng mong được nghiêng mình chào đón. Nay tiên sinh đến đây thật là hồng phúc của nước nhà. Tiên sinh là bề tôi cũ của nhà Lê, nay ta truất phế nhà Lê, tiên sinh có oán ta chăng.
Ngô Thì Nhậm đáp:
- Vua Lê vô tài kém đức, để nước nhà loạn lạc muôn dân đói khổ lầm than, Chúa công dùng kế “Phạt thảo kinh xà” truất nhà Lê cứu dân vực nước sao hạ thần lại dám oán Chúa công.
Nguyễn Huệ nói:
- Cảm ơn tiên sinh đã hiểu được Huệ ta. Nhưng có người bảo ta rằng tiên sinh định khuyên vua Lê Chiêu Thống quay lại Hoàng cung phá thế “Phạt thảo kinh xà” của ta. Chính vì lẽ ấy nên ta mới hỏi tiên sinh có vì nhà Lê mà oán ta chăng.
Ngô Thì Nhậm kinh ngạc hỏi:
- Ai bảo với Chúa công điều ấy?
Nguyễn Huệ đáp:
- Đó chính là Đặng Trần Thường!
Ngô Thì Nhậm lấy làm lạ hỏi:
- Đặng Trần Thường có đến hỏi thần về thế cuộc. Thần khuyên Thường ra giúp Chúa công, làm gì có việc thần định khuyên vua Chiêu Thống về lại kinh thành. Sao lại có sự lạ như thế?
Nguyễn Huệ trầm ngâm hỏi:
- Tiên sinh và Đặng Trần Thường có thù oán gì chăng?
Nhậm đáp:
- Mỗi khi gặp khó họ Đặng thường đến vấn kế của thần, làm gì có việc thù oán.
Nguyễn Huệ ngoảnh lại bảo quân:
- Mau đến công quán mời Đặng Trần Thường tới đây cho ta.
Quân đi rồi Nguyễn Huệ lại bảo Ngô Thì Nhậm:
- Tiên sinh cảm phiền nấp sau bức bình phong, ta có việc riêng cần hỏi Đặng Trần Thường ít câu.
Nhậm liền làm theo lời Huệ. Thường đến, Huệ hỏi:
- Đặng tiên sinh khuyên ta nên giết Ngô Thì Nhậm. Nay có người khuyên nên thuyết Nhậm bỏ Lê ra giúp ta. Vậy theo ý tiên sinh thì thế nào?
Đặng Trần Thường đáp:
- Làm gì có việc ấy. Chính hạ thần đã thuyết Nhậm ra phò Chúa công nhưng Nhậm không nghe kia mà!
Nguyễn Huệ cười bảo:
- Nhưng người này lại thuyết được Ngô Thì Nhậm chẳng phải là tài hơn Đặng tiên sinh sao. Để ta gọi người này ra cho Đặng tiên sinh gặp mặt.
Nói xong Huệ quay vào trong gọi:
- Ngô tiên sinh hãy ra di!
Ngô Thì Nhậm từ sau bức bình phong bước ra. Nhìn thẳng vào mặt Đặng Trần Thường, Nhậm hỏi:
- Tôi khuyên Đặng huynh ra giúp Tây Sơn. Sao Đặng huynh lập kế hãm hại tôi?
Đặng Trần Thường thất sắc chẳng biết đối đáp thế nào. Bỗng nghe Nguyễn Huệ vỗ án quát:
- Phường tiểu nhân đê tiện! Quân đâu, lôi Đặng Trần Thường ra ngoài chém chết cho ta.
Ngô Thì Nhậm vội can Nguyễn Huệ:
- Đại trượng phu là kẻ kính người quân tử, thương xót tiểu nhân. Xin Chúa công hãy thương xót mà tha cho họ Đặng một phen.
Nguyễn Huệ hầm hầm nói:
- Bình sinh ta rất ghét bọn người lấy oán trả ân. Nể lời Ngô Thì Nhậm tha chết cho ngươi, nhưng phải đánh hai mươi hèo làm gương cho kẻ khác.
Ngô Thì Nhậm lại can:
- Đặng Trần Thường là học trò sao chịu nổi hai mươi hèo. Xin Chúa công mở lượng hiếu sinh mà tha cho.
Nguyễn Huệ bảo Thường:
- Ngươi là học trò, vậy ta ra một vế đối. Nếu đối được thì tha, bằng không phải đánh hai mươi hèo.
Đặng Trần Thường thoát chết, hoàn hồn thưa:
- Xin Chúa công ra câu đối.
Nguyễn Huệ mỉm cười đọc rằng:
- Trần tục, tầm thường như Đặng Trần Thường, kẻ tiểu nhân làm gì nên đặng.
Đặng Trần Thường nhăn trán chau mày suy nghĩ sợ đà sởn gai ốc, đổ mồ hôi hột mà vẫn chưa tìm ra vế đối. Trong cơn nguy khốn chợt nghe Ngô Thì Nhậm nói:
- Người thượng quân từ sánh bằng cây trúc, người trung quân tử sánh với cây ngô đồng. Nhậm tôi thời đến được Chúa công trọng dụng cho nhậm chức, sự quân tử chỉ đáng sánh với cây ngô đồng mà thôi.
Thường nghe Nhậm nói xong mừng rỡ thưa cùng Nguyễn Huệ:
- Tiểu sinh xin đọc vế đối.
Huệ hất hàm bảo:
- Ngươi hãy đọc đi. Nếu đối được ta sẽ tha không đánh!
Đặng Trần Thường đối rằng:
- Thời đến, chức nhậm như Ngô Thì Nhậm, người quân tử đáng sánh cây ngô.
Nguyễn Huệ vỗ án quát:
- Câu đối của ngươi tuy chỉnh về văn nhưng không chỉnh về ý. Quân bay đè xuống đánh hai mươi hèo.
Thường thất kinh hỏi:
- Thưa Chúa công thế nào là không chỉnh ý?
Huệ đáp:
- Ngươi lấy oán trả ân toan hại Ngô Thì Nhậm. Nhậm không lấy đó làm hiềm, nhắc ý cho ngươi đối được câu đối của ta để cứu ngươi. Đó là thượng quân tử đáng sánh bằng cây trúc, sao bảo rằng chỉ sánh bằng cây ngô. Ấy là không chỉnh về ý. Quân bay đè xuống đánh ngay.
Đặng Trần Thường bị đánh hai mươi hèo lột da cháy máu đau đớn tủi hổ rời khỏi dinh. Thường nghĩ thầm:
- Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm hùa nhau làm nhục ta. Ta nghe Nguyễn Phúc Ánh đang khởi binh ở Gia Định chống nhau với Tây Sơn, vậy thì nên vào theo Chúa Nguyễn. Trước là lập công danh với đời, sau là báo tư thù mới hả dạ.
Nghĩ xong liền tìm thuyền vượt biển vào Gia Định.
Phần Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm, sau khi đuổi Đặng Trần Thường đi rồi, Nhậm hỏi:
- Lê Chiêu Thống bị Chúa công dùng kế “Phạt thảo kinh xà” đuổi khỏi kinh thành, thần e rằng vua Lê sẽ sang Tàu cầu cứu vua Càn Long nhà Thanh. Nếu quân Thanh mượn cớ phù Lê sang xâm lược nước ta thì nguy. Xin Chúa công liệu trước.
Nguyễn Huệ khen Nhậm:
- Tiên sinh mới ra khỏi chòi tranh mà biết trước thời cuộc thật tài năng hiếm có. Đây là phong thư ta viết sẵn xin tiên sinh cất giữ, khi nào quân Thanh sang xâm lược nước ta thì tiên sinh hãy mở ra xem. Trong đó đã có kế chống nhau với giặc.
Đoạn Huệ trao thư cho Nhậm. Nhậm quỳ nhận thư, Huệ lại dặn:
- Việc ta giao mật thư này cho khanh không được tiết lộ cho một ai biết, kể cả Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Tuyết.
Ngô Thì Nhậm tò mò hỏi:
- Kế chống giặc thế nào mà hệ trọng thế?
Huệ cười đáp:
- Đợi quân Thanh sang khanh mới được giở ra, khi ấy khắc biết!
Dặn dò Ngô Thì Nhậm xong, Nguyễn Huệ hội các tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết đến nói:
- Nay ta phong Ngô Văn Sở đứng đầu quan võ, Ngô Thì Nhậm cai quản quan văn, giao mười một trấn ở Bắc Hà cho các khanh định đoạt. Đừng nên phân biệt kẻ văn người võ, kẻ mới người cũ mà khích bác lẫn nhau. Nếu không có việc hệ trọng thì không cần tâu bẩm làm chi. Các khanh nên gắng sức chớ phụ lòng mong đợi của ta.
Sắp đặt mọi việc xong, Nguyễn Huệ liền cùng Trần Văn Kỷ trở về Phú Xuân.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 47

Võ Tánh bày điệu hổ ly sơn.
Nguyễn Văn Trương dùng ly gian kế.




Nhắc lại Nguyễn Vương Phúc Ánh ở Tiêm La quốc chờ Bá Đa Lộc cầu viện nước Pháp Lang Sa đem binh thuyền đến giúp. Chờ mãi không thấy tăm hơi đâu cả, Ánh liền sai sứ tìm đường sang Pháp quốc dò la tin tức Bá Đa Lộc. Một ngày kia sứ giả về báo rằng:
- Tâu Thượng vương, nước Pháp Lang Sa có loạn nên vua Pháp không bằng lòng đem quân sang giúp. Bá Đa Lộc nói sẽ tự mình bỏ tiền mua súng đóng thuyền tuyển mộ binh lính rồi sẽ đến giúp Thượng vương.
Nguyễn Phúc Ánh buồn rầu nói:
- Ta không thể nào chờ Bá Đa Lộc được nữa, phải tự mình lo lấy mà thôi. Nhưng bây giờ trong tay chỉ có một ngàn quân sao về nước đánh Tây Sơn được. Các tướng ai có kế gì chăng.
Nguyễn Huỳnh Đức bước ra nói:
- Hiện nay Nguyễn Huệ cai trị từ ải Hải Vân trở ra Bắc. Anh em Nhạc - Huệ bất hòa đánh giết lẫn nhau. Đất Gia Định do Nguyễn Lữ trấn thủ. Nguyễn Lữ thật thà, bất tài, nhu nhược, Đặng Văn Long lại bỏ Nguyễn Lữ ra Phú Xuân theo Nguyễn Huệ. Ấy thật là trời giúp Thượng vương nên mới dành đất Gia Định cho Thượng vương đó. Đánh lấy Gia Định đất rộng dân đông là nương theo thiên thời mà giành địa lợi.
Nguyễn Vương chặn Đức lại hỏi:
- Nhưng quân ta chỉ có một ngàn, sao chiếm nổi Gia Định?
Đức đáp:
- Muốn giành địa lợi thì phải được nhân hòa.
Nguyễn Vương hỏi:
- Thế nào là nhân hòa?
Đức đáp:
- Nay ở Gia Định có một người nắm trong tay hàng vạn quân lập căn cứ trong rừng đang đánh nhau với quân Tây Sơn. Thượng vương thuyết người này về giúp lo gì không lấy được Gia Định.
Nguyễn Vương hỏi:
- Người ấy là ai. Lập căn cứ tại đâu?
Nguyễn Huỳnh Đức đáp:
- Người này nổi danh là đệ nhất hùng trong Gia Định tam hùng. Đang lập căn cứ tại rừng Tam Phụ.
Nguyễn Vương lắc đầu nói:
- Ta trước giết Võ Nhân là anh ruột Võ Tánh, nên năm xưa ta sai Ngô Tùng Châu đến thuyết mà Võ Tánh không theo. Nay nói cách gì cho Võ Tánh giúp ta được?
Ngô Tùng Châu xen vào thưa:
- Võ Tánh là người trung quân ái quốc, nhưng e Thượng vương ngờ Võ Tánh còn nhớ thù nhà nên chưa đến giúp Thượng vương được đó thôi.
Nguyễn Vương hỏi:
- Ta thì ngại Võ Tánh còn nhớ thù anh. Võ Tánh thì sợ ta vì điều ấy mà không tin Tánh thực lòng theo giúp. Vậy phải làm sao hóa giải được nỗi hiềm nghi này.
Ngô Tùng Châu cười đáp:
- Trước Thượng vương cắt đứt ruột thịt người ta, nay Thượng vương nên đem ruột thịt của mình nhà thưởng cho họ, ắt Võ Tánh sẽ hết nghi ngờ.
Nguyễn Vương ngạc nhiên hỏi:
- Ngô tham mưu nói vậy là ý thế nào. Ta vẫn chưa hiểu?
Ngô Tùng Châu kề tai Phúc Ánh nói nhỏ một hồi. Nghe xong Nguyễn Vương mừng rỡ khen:
- Ngô tiên sinh thật là cao kiến. Vậy phiền tiên sinh tìm về cố quốc đến rừng Tam Phụ gặp Võ Tánh lần nữa.
Ngô Tùng Châu vâng lệnh đi ngay. Gặp nhau, Tánh hỏi Châu:
- Năm xưa tôi hẹn với Ngô huynh chờ mãn hạn tang anh sẽ đem quân theo giúp Chúa. Không ngờ Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Định đuổi Chúa chạy sang Tiêm La quốc. Nay tôi muốn theo Chúa vậy phải tìm ở đâu?
Ngô Tùng Châu mừng rỡ đáp:
- Chẳng giấu gì Võ đệ, tôi vâng lệnh Chúa đến trao cho Võ đệ một vật để chứng tỏ rằng Chúa không hề nghi ngờ gì Võ đệ cả.
Võ Tánh hỏi:
- Ấy là vật gì?
Ngô Tùng Châu liền đưa cho Võ Tánh xem một bức tranh vẽ hình một người con gái dung nhan diễm lệ. Xem xong Tánh ngạc nhiên hỏi:
- Bức chân dung này của ai. Cho tôi xem có dụng ý gì.
Ngô Tùng Châu cười đáp:
- Đây là chân dung của quận chúa Ngọc Du là em ruột của Chúa. Nay Chúa muốn gả quận chúa Ngọc Du cho Võ đệ, ấy là muốn lấy tình thật mà đãi ngộ Võ đệ đó!
Võ Tánh xua tay nói:
- Tôi nay ra giúp Chúa vì đã mãn hạn tang anh không còn sợ mang tiếng là người bất hiếu. Nếu chờ Chúa gả em gái mới ra giúp sao bảo là trung được. Ngô huynh hãy về tâu với Chúa rằng khi nào Chúa về nước, Tánh tôi sẽ thân hành đem quân đến đón. Còn việc gả Quận chúa, Tánh tôi là kẻ vũ phu thật tình không dám nhận.
Tùng Châu hỏi:
- Chúa ta trong tay chỉ có năm ngàn quân sao dám đường đột về nước. Theo tôi Võ đệ hãy ra quân đánh lấy Trường Đồn, Hà Tiên. Chúa sẽ theo đường bể về Hà Tiên. Như vậy mới tiện.
Võ Tánh cười đáp:
- Một ngàn quân cũng đã chiếm được Hà Tiên. Nguyễn Lữ nghe Chúa ta ít quân tất đem quân tiến xuống Trường Đồn đánh Hà Tiên. Khi ấy tôi ở rừng Tam Phụ sẽ bất ngờ đánh chiếm Sài Côn, Nguyễn Lữ ở Trường Đồn sẽ lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch. Ấy là kế điệu hổ ly sơn đó.
Ngô Tùng Châu mừng rỡ khen:
- Ấy thật là diệu kế. Phen này phải bắt sống Nguyễn Lữ.
Nói xong Châu liền từ biệt Võ Tánh sang Tiêm La quốc thuật lại kế Võ Tánh cho Nguyễn Vương nghe.
Nguyễn Vương cảm khái nói:
- Võ Tánh thật là người trung hiếu vẹn toàn xưa nay hiếm thấy. Nghĩa thật là đáng kính, tài thật là đáng phục.
Đoạn Nguyễn Vương liền đem quân theo đường bể tiến đánh Hà Tiên.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 47 (tt)



Bấy giờ Đông Định Vương Nguyễn Lữ ngày ấy ở trong thành Sài Côn nghe quân thám mã về báo rằng:
- Thưa Đông Định Vương, Nguyễn Phúc Ánh từ Tiêm La quốc đem quân về đánh chiếm Hà Tiên. Xin Đông Định Vương định liệu.
Nguyễn Lữ giật mình nói:
- Hai anh ta bất hòa khiến lòng người ly tán. Dân Gia Định chỉ một lòng về với Phúc Ánh. Vả lại Phúc Ánh ở Tiêm La về chiếm Hà Tiên chắc là có quân Tiêm La theo giúp. Chi bằng ta bỏ Gia Định về Quy Nhơn với Hoàng huynh là hơn.
Nguyễn Lữ vừa dứt lời bỗng nghe tiếng nói lớn:
- Xin Đông Định Vương chớ bỏ Gia Định.
Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra người vừa nói là quan Thái bảo Phạm Văn Tham. Nguyễn Lữ hỏi:
- Văn Tham cho rằng ta có thể địch nổi với quân Tiêm La hay sao mà bảo đừng bỏ đất Gia Định.
Phạm Văn Tham đáp:
- Năm trước quân Tiêm La bi tiêu diệt ở Rạch Gầm, Trường Đồn, năm vạn quân còn lại mấy trăm ôm đầu chạy về nước. Từ ấy đến nay chúng nghe tiếng Tây Sơn ta đã kinh tâm tán đởm làm gì mà dám sang lần nữa. Xin Đông Định Vương chớ vội bỏ đất Gia Định.
Nguyễn Lữ chau mày nói:
- Dù quân Tiêm không sang thật, nhưng lòng dân Gia Định chỉ theo về Phúc Ánh, thành Sài Côn lại chẳng có núi non che chở e không chổng nổi với giặc. Ý ta đã quyết, Văn Tham đừng nói nữa.
Tham quỳ dưới án một mực cầu xin:
- Bệ hạ giao cho bọn ta trấn thủ Gia Định, giặc đến chưa đánh đã chạy sao đáng mặt làm tướng. Nếu Đông Định Vương muốn lui xin hãy tạm về đóng ở Trấn Biên cho an lòng quân sĩ. Tôi xin ở lại Sài Côn đánh Phúc Ánh. Nếu chẳng may Văn Tham tôi bỏ mạng thì Đông Định Vương từ Trấn Biên chạy về Quy Nhơn cũng chẳng muộn gì.
Nguyễn Lữ nghe vậy an tâm liền đem năm ngàn quân lui về giữ Trấn Biên.
Lúc bấy giờ ở trong quân Tây Sơn có một viên tiểu tướng tên là Nguyễn Văn Trương hay việc ấy bèn bảo bọn thủ hạ rằng:
- Đông Định Vương Nguyễn Lữ là người bất tài, sớm muộn gì đất Gia Định không mất về tay Chúa Nguyễn. Bọn ta đều là người Gia Định sao không theo về với Chúa Nguyễn lập công danh với đời.
Nói xong Trương đem ba trăm thủ hạ về Hà Tiên quy hàng Nguyễn Vương. Nguyễn Vương hỏi:
- Ngươi bỏ Tây Sơn theo ta lấy gì tin là thực.
Nguyễn Văn Trương đáp:
- Hạ thần xin hiến một kế khiến Nguyễn Lữ phải bỏ Trấn Biên mà chạy về Quy Nhơn, Phạm Văn Tham tất bị cô lập ở Sài Côn. Khi ấy Thượng vương lấy đất Gia Định như trở bàn tay, rồi tin thực hay không tùy Thượng vương phán quyết.
Nguyễn Vương hỏi:
- Kế thế nào?
Trương đáp:
- Thượng vương cứ làm như vầy... như vầy. Ấy là ly gián kế.
Nguyễn Vương nghi ngờ hỏi:
- Kế mọn này có thể lừa được Nguyễn Lữ sao.
Trương đáp:
- Phạm Văn Tham biết Nguyễn Lữ là người bất nhất, tất cả hai sẽ trúng kế. Thần xin đem đầu ra bảo đảm, xin Thượng vương chớ lo.
Nguyễn Vương nghe Văn Trương cả quyết thế liền theo kế thi hành.
Nhắc lại Phạm Văn Tham trấn thủ Sài Côn nghe quân vào báo:
- Thưa tướng quân, vua Thái Đức sai ngươi đi đường biển vào trao thư cho Đông Vương.
Phạm Văn Tham nói:
- Đông Vương không có ở đây, vậy ta phải mở thư ra xem vua dặn dò đánh giặc thế nào?
Tham mở thư ra đọc. Thư rằng:
Em quyết lòng rút binh mà Phạm Văn Tham nhất định xin ở lại trấn Sài Côn là có ý ở biên cương để dễ hàng gịăc. Đã biết ý của Tham như thế sao không giết đi còn tâu bẩm làm gì!
Phạm văn Tham xem thư xong thất kinh than:
- Ta một lòng vì nước sao Đông Vương nỡ ngờ ta như thế. Ta phải về Trấn Biên minh oan cùng Đông Vương mới đuợc.
Nói rồi Phạm Văn Tham chỉ đem vài trăm quân ra cửa Bắc thành Sài Côn, nhắm Trấn Biên trực chỉ. Nguyễn Lữ ở trong thành Trấn Biên nghe quân vào báo:
- Thưa Đông Vương, dân ở thành Trấn Biên xầm xì bàn tán rằng: Phạm Văn Tham đã dâng thành Sài Côn đầu hàng Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn Lữ gạt đi bảo:
- Phạm Văn Tham là người trung nghĩa làm gì có việc phản ta.
Vừa dứt lời quân tín cẩn vào báo:
- Khắp trong thành ngoài nội đều đồn rằng Phạm Văn Tham sắp dẫn quân Nguyễn Phúc Ánh đến đánh ta.
Nguyễn Lữ liền đứng lên đi đi lại lại nghĩ thầm:
- Lẽ đâu Phạm Văn Tham muốn hàng nên mới một mực xin ta cho ở lại trấn thủ Sài Côn.
Lữ còn đang hoài nghi bỗng quân do thám hớt hải chạy vào báo rằng:
- Thưa Đông Vương, Phạm Văn Tham đang dẫn quân tiến về thành Trấn Biên. Chẳng hiểu là có ý gì?
Nguyễn Lữ giật mình kinh hãi nói:
- Phạm Văn Tham đã phản ta rồi dẫn quân Nguyễn Phúc Ánh đến đánh ta đó. Mau rút binh về Quy Nhơn.
Than rồi Lữ liền dần quân ra cửa Bắc thành mà chạy. Hay tin ấy Phạm Văn Tham than:
- Nếu vậy ta chỉ còn một cách là đánh thắng Phúc Ánh mới minh oan với vua Thái Đức và Đông Vương Nguyễn Lữ được mà thôi.
Đoạn Phạm Văn Tham lại dẫn quân quay về thành Sài Côn. Đến nơi Tham gọi tên thuộc tướng là Phạm Hổ tới bảo:
- Ta đã viết sẵn một phong thư, ngươi hãy gấp ra Phú Xuân báo cáo tình hình cùng Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Chỉ Bắc Bình Vương mới cứu ta được mà thôi.
Phạm Hổ vâng lời liền lên thuyền đi đường biển ra Phú Xuân. Hổ đi rồi, Tham bảo quân:
- Mau truyền lệnh ta đem toàn quân vào Trường Đồn đánh Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn Vương hay tin ấy bảo các tướng:
- Nguyễn Lữ và Phạm Văn Tham trúng kế ly gián của Nguyễn Văn Trương. Phạm Văn Tham kéo quân đến Trường Đồn ắt Sài Côn bỏ trống đúng như Võ Tánh dự đoán. Vậy ta phải mật sai Võ Tánh từ rừng Tam Phụ đánh chiếm Sài Côn. Khi ấy Phạm Văn Tham không còn đường rút tất phải đầu hàng.
Phạm Văn Tham ở Trường Đồn nghe quân vào báo:
- Võ Tánh ở rừng Tam Phụ đã đem quân đánh chiếm Sài Côn.
Tham thất kinh nói:
- Ta đã lầm mưu Nguyễn Phúc Ánh. Thành Sài Côn mất, ta ở Trường Đồn ba mặt đều thọ địch, nếu không sớm theo sông Tiền Giang ra cửa Hàm Luông theo đường biển rút quân về Bắc, ngộ nhỡ địch đem thủy binh chặn mất đường ấy thì làm thế nào.
Tham vừa dứt lời quân thám mã lại vào báo:
- Thưa tướng quân, thủy binh quân Nguyễn đã đóng thủy trại kín cả một dải Tiền Giang.
Phạm Văn Tham buồn rầu hạ lệnh:
- Ba quân canh phòng cẩn mật liều chết thủ thành chờ Bắc Bình Vương đem quân đến cứu.
Phạm Văn Tham lo lắng lên mặt thành Trường Đồn nhìn xuống sông Tiền Giang, chiến thuyền của quân Nguyễn giăng lớp lớp. Lại trông về phương Bắc tin quân cứu viện của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ còn trong làn sương khói xa mờ. Phạm Văn Tham thở dài than:
- Vái trời cho Phạm Hổ đến được Phú Xuân cầu cứu Bắc Bình Vương.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 48

Nguyễn Phúc Ánh tái chiếm Gia Định.
Lê Chiêu Thống cầu cứu Mãn Thanh.



Nói về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ở Phú Xuân ngày ấy nghe quân vào báo:
- Sứ giả của Thái Đức Hoàng Đế đem thư từ Quy Nhơn đến!
Nguyên Huệ liền sai quân lập hương án rồi quỳ tiếp chỉ. Đọc thư xong Nguyên Huệ khóc lớn kêu lên rằng:
- Nguyễn Lữ em ôi!
Đặng Văn Long và Vũ Văn Dũng giật mình đồng thanh hỏi:
- Nhị sư huynh thế nào mà Đại sư huynh đau lòng vậy?
Huệ gạt nước mắt đáp:
- Nguyễn Lữ thọ bệnh đau hai mắt đã mất tại Quy Nhơn!
Văn Long ngạc nhiên hỏi:
- Nhị sư huynh đang trấn thủ Gia Định cớ sao có mặt tại Quy Nhơn?
Huệ đáp:
- Trong thư Hoàng huynh bảo Nguyễn Phúc Ánh từ Tiêm La đem quân về đánh, Phạm Văn Tham dâng thành Sài Côn hàng giặc. Nguyễn Lữ phải bỏ chạy về Quy Nhơn lâm bệnh mà chết.
Huệ vừa dứt lời, quân lại vào báo:
- Thưa Chúa công, có sứ giả của tướng quân Phạm Văn Tham từ Gia Định xin vào ra mắt.
Huệ liền bảo:
- Mau cho vào.
Phạm Hổ vào đến quỳ khóc thưa:
- Tướng quân Phạm Văn Tham bị vua Thái Đức và Đông Định Vương nghi oan hàng Nguyễn Phúc Ánh nên không cho quân vào cứu Gia Định. Phạm tướng quân sai tôi vượt ngàn dặm biển đến đây cầu xin Bắc Bình Vương đem quân vào cứu. Nếu không Gia Định phải lâm nguy.
Nguyễn Huệ giật mình than:
- Nói vậy Nguyễn Lữ và Phạm Văn Tham đã bị ly gián kế của Nguyễn Phúc Ánh rồi. Hiện Phạm Văn Tham đang đóng quân tại đâu?
Phạm Hổ đáp:
- Hiện Phạm tướng quân đã kéo quân đến Trường Đồn chống nhau với quân Nguyễn Phúc Ánh ở Hà Tiên.
Nguyễn Huệ lại thở dài rằng:
- Thương thay Phạm Văn Tham. Kéo toàn quân đóng ở Trường Đồn thì Phạm Văn Tham nguy mất. Nếu quân Võ Tánh từ rừng Tam Phụ đánh chiếm Sài Côn thì Trường Đồn bốn mặt đều thọ địch phải liệu làm sao? Ôi. Thương thay Phạm Văn Tham!
Phạm Hổ dập đầu khóc:
- Xin Bắc Bình Vương mau cho quân vào cứu.
Nguyễn Huệ còn chau mày suy nghĩ, Vũ Văn Dũng lớn tiếng:
- Đại sư huynh hãy cho thần và sư đệ Văn Long vào Gia Định đánh Phúc Ánh cứu Phạm Văn Tham và báo thù cho Nhị sư huynh. Cứu binh như cứu hỏa, đại sư huynh còn ngẫm nghĩ nỗi gì.
Huệ trầm ngâm nói:
- Ngô Văn Sở ở Bắc Hà báo rằng vua Lê Chiêu Thống đã sang Tàu cầu viện vua Càn Long nhà Thanh. Đã một năm nay ta dồn hết nhân tài vật lực trong nước chuẩn bị đánh giặc ngoại xâm phương Bắc. Nay chúng sắp sang nên ta không thể cho hai em đem quân vào Nam được.
Vũ Văn Dũng lại lớn tiếng rằng:
- Nhị sư huynh vì thua Phúc Ánh mà chết, đại sư huynh lại chẳng muốn báo thù sao?
Huệ điềm tĩnh đáp:
- Nguyễn Lữ là em ruột của ta, ta không đau lòng sao được. Nhưng thù nhà là việc phụ, nước dân là vệc chính. Giặc Thanh rất đông, rất mạnh. Nước ta nhỏ phải địch nước lớn gấp mười lần, quân ta ít phải cự với giặc nhiều. Quân đã ít không đủ để chống giặc còn cứu được ai!
Phạm Hổ thất kinh hỏi:
- Nếu Bắc Bình Vương không cứu, Phạm tướng quân tôi phải tính thế nào?
Nguyễn Huệ chậm chạp nói:
- Nếu Nguyễn Phúc Ánh chưa lấy Sài Côn thì ngươi mau bảo Phạm Văn Tham bỏ thành Trường Đồn về giữ Sài Côn. Ta sẽ viết thư sai người vào Bình Thuận bảo Đặng Xuân Phong kéo quân vào Trấn Biên làm thế môi răng với Phạm Văn Tham ở Sài Côn thì không phải lo gì nữa.
Phạm Hổ hỏi:
- Nếu Sài Côn đã mất thì làm thế nào?
Huệ đau xót đáp:
- Nếu thế Văn Tham ở Trường Đồn bốn bề thọ địch, khi ấy ta e nước xa không cứu được lửa gần. Ngươi hãy bảo Phạm Văn Tham tạm quy hàng Phúc Ánh, chờ ta phá xong quân Thanh ở Bắc sẽ lập tức đem quân vào Nam đánh giặc Ánh. Khi ấy Phạm Văn Tham làm nội ứng là lập nên công lớn vậy.
Phạm Hổ không biết làm sao đành gạt nước mắt từ biệt Nguyễn Huệ đi ngay. Hổ đi rồi Nguyễn Huệ than:
- Hoàng huynh ta càng già càng lo hưởng thụ cầu an, thật là đáng tiếc! Ôi! Thương thay Phạm Văn Tham!
Phạm Hổ đến Gia Định nghe tin Phạm Văn Tham bị vây ở Trường Đồn, trong hết lương thảo, ngoài không quân cứu viện nên đã mở cửa thành ra hàng Phúc Ánh. Phạm Hổ cải trang tìm gặp Phạm Văn Tham thuật lại lời Nguyễn Huệ cho Tham nghe. Phạm Văn Tham than:
- Giờ chỉ còn cách ấy mà thôi. Ông trời sao bày cảnh éo le.
Phạm Hổ hỏi:
- Sao tướng quân lại nói thế.
Tham đáp:
- Nếu vua Thái Đức tài cao chí lớn như Bắc Bình Vương thì ta đâu lâm vào cảnh éo le như thế này!
Tham vừa dứt lời bỗng võ sĩ đập cửa xông vào bắt Phạm Văn Tham và Phạm Hổ trói lại. Nguyễn Phúc Ánh từ ngoài bước vô nói:
- Ta biết ngươi bất đắc đĩ mới ra hàng ắt có ngày tạo phản nên ngầm cho người theo dõi, quả nhiên là thực. Quân bay lôi ra chém!
Lúc đao phủ khai đao, Phạm Văn Tham ngửa mặt lên trời than rằng:
- Nếu Bắc Bình Vương là anh vua Thái Đức thì Phạm Văn Tham ta đâu chết thảm thế này!
Than xong đầu bèn lìa khỏi cổ.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 48 (tt)



Lại nói về Đặng Xuân Phong đang thủ thành Bình Thuận được thư Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, Phong liền đem quân vào giữ Trấn Biên. Đến nơi nghe tin Phạm Văn Tham đã hàng Phúc Ánh, thành Sài Côn đã mất, Phong bèn sai người về Quy Nhơn tâu vua Thái Đức xin đem quân vào đánh. Thái giám Vũ Tâm Can hầu cận bên vua, thừa lúc vua say rượu đang vui cùng mỹ nữ, Tâm Can nói gièm:
- Đặng Xuân Phong đang trấn thủ Bình Thuận, không có lệnh của Bệ hạ bỗng kéo quân vào Trấn Biên, chẳng khác nào Phạm Văn Tham cố xin Đông Định Vương trấn Sài Côn để dễ hàng giặc. Xin Bệ hạ lo liệu.
Vua Thái Đức lúc ấy đã quá say, ôm mỹ nữ trong lòng khề khà hỏi:
- Vậy phải làm sao?
Vũ Tâm Can đáp:
- Nên giết đi để trừ hậu hoạn.
Thái Đức phán:
- Ngươi hãy thay trẫm làm việc đó.
Đặng Xuân Phong ở Trấn Biên nghe quân vào báo có tướng quân Lê Trung đem lệnh vua đến. Đặng Xuân Phong hỏi:
- Kế sách đánh Phúc Ánh nhà vua liệu thế nào. Sao chỉ có mình ông đến đây và sao lại triệu tôi về kinh?
Lê Trung đáp:
- Hoàng thượng triệu ông về và sai tôi vào thay. Tôi với ông là chỗ thâm tình đã từng vào sinh ra tử nên tôi mới nói với ông điều này, tùy ông định liệu. Tôi e rằng nịnh thần trong triều che mắt Hoàng thượng toan hại ông chăng?
Đặng Xuân Phong nghĩ thầm rằng:
- Anh ta là Đặng Văn Long đã bỏ vua Thái Đức theo Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Ngộ nhỡ vua vì việc ấy mà hại ta thì sao.
Nghĩ rồi Đặng Xuân Phong bảo Lê Trung:
- Bắc Bình Vương trấn ngoài mặt Bắc, Hoàng thượng không chịu nhìn xa, Nguyễn Phúc Ánh thừa thời đem quân về lấy đất Gia Định. Ông là đại tướng hãy một lòng đánh giặc giúp vua. Tôi vì thế buộc nên phải ra đi, nếu về kinh thế nào cũng chết.
Lê Trung hỏi:
- Ông định đi đâu?
Phong đáp:
- Nếu không ra Phú Xuân cùng Bắc Bình Vương còn biết đi đâu nữa.
Nói xong Đặng Xuân Phong xuống thuyền vượt bể ra Phú Xuân. Nguyễn Huệ ở Phú Xuân nghe Đặng Văn Phong kể đầu đuôi sự việc, Huệ thở dài nói:
- Hoàng huynh ta ngày càng bỏ bê chính sự, e rằng không địch nổi Nguyễn Phúc Ánh. Còn ta phải chờ phá giặc Thanh xong mới kéo quân vào Nam được. Không diệt Phúc Ánh khi đang xây dựng lực lượng, đợi hắn lớn mạnh càng khó khăn thêm.

Nói về vua Lê Chiêu Thống bỏ thành Thăng Long chạy về Kinh Bắc rồi trốn lên vùng rừng núi Lạng Sơn. Vua Chiêu Thống sai bọn thị thần Lê Quýnh và Trần Danh Án sang cầu viện vua Càn Long nhà Thanh.
Lê Quýnh và Trần Danh Án ra mắt Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị. Lê Quýnh tâu:
- Nhà Lê của hạ thần làm vua ở nước An Nam đã ba trăm năm nay. Vua nào lên trị vì cũng đều sai sứ sang thiên quốc xin phong. Nay vua của hạ thần bị giặc Tây Sơn đánh đuổi phải trốn lên chốn rừng sâu nước độc, nếm mật nằm gai. Vua sai bọn hạ thần lội suối băng rừng tìm đến thiên quốc dập đầu dưới trướng cầu xin thiên quốc đem binh sang giúp đuổi giặc Tây Sơn đưa vua hạ thần về nước thì ơn ấy tạc dạ ghi lòng ngàn năm giữ phận con dân, trọn đời triều cống. Xin đại quan đoái thương tâu lên cùng Thiên tử.
Nói xong Quýnh và Án cùng dập đầu gào khóc.
Tôn Sĩ Nghị mân mê tóc đuôi sam bảo với sứ vua Lê:
- Hai ngươi hãy ra nghỉ ngoài công quán, ta sẽ cố sức tâu xin, thế nào Hoàng thượng cũng chuẩn y.
Lê Quýnh và Trần Công Án cả mừng lạy tạ lui ra. Còn lại một mình, Tôn Sĩ Nghị hất mạnh đuôi tóc ra sau lưng nói lớn:
- Ta mượn cớ giúp vua Lê tâu xin Hoàng thượng đem quân chiếm nước An Nam là lập nên đại công vậy.
Đoạn Tôn Sĩ Nghị viết biểu sai người về kinh dâng lên vua Càn Long. Vua Thanh bèn phong Tôn Sĩ Nghị làm Tiết Chế điều binh bốn tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây tổng cộng được ba mươi vạn quân sang đánh nước An Nam.
Tôn Sĩ Nghị hớn hở bảo các tướng:
- Nay ta tuân lệnh vua đem đại binh ba mươi vạn sang đánh An Nam. Các ngươi hãy cùng ta cố sức lập công lớn trả ơn vua lưu danh hậu thế.
Các tướng đồng thanh thưa:
- Xin Tiết Chế xuống lệnh, chúng tôi thề cố sức lập công.
Tôn Sĩ Nghị truyền:
- Ô Đại Kinh đem sáu vạn quân theo đường Tuyên Quang tiến xuống, Sầm Nghi Đống đem sáu vạn quân theo đường Cao Bằng tiến sang, ta sẽ đem mười tám vạn quân đi đường Lạng Sơn. Cả ba đạo cùng tiến sang làm cỏ nước Nam, hẹn gặp tại Thăng Long kinh đô của chúng.
Ô Đại Kinh và Sầm Nghi Đống bước ra lãnh lệnh. Tôn Sĩ Nghị lại truyền:
- Nay ta phong Trương Triều Long làm tiên phong đem năm vạn quân đi trước mở đường. Ta cùng Tả dực phó tướng Thượng Duy Thăng cùng đại binh đi sau tiếp ứng. Truyền lệnh ta, quân các đạo lập tức xuất binh.
Tháng 10 năm Mậu Thân (1788) quân Thanh chia làm ba mũi, tiến vào An Nam..

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 49

Ngô Thì Nhậm khuyên tướng lui quân.
Phan Văn Lân một mình chặn giặc.



Tin quân Thanh kéo quân đến ải Nam Quan bay về tới Thăng Long. Ngô Thì Nhậm hay tin ấy nhủ thầm: Trước khi về Phú Xuân, Chúa công có trao cho ta một lá thư và dặn rằng khi nào quân Thanh sang đánh mới được mở ra xem, sẽ có kế chống giặc. Vậy ta mau xem thử trong thư ấy nói gì.
Nghĩ xong làm liền. Thư viết rằng:
Khi quân Thanh sang đánh, khanh nên khuyên Ngô Văn Sở bỏ Bắc Hà rút bộ binh về giữ ải Tam Điệp, đem thủy binh đóng tại cửa biển Biện Sơn, làm kế “không thành” trên toàn cõi Bắc Hà rồi ta sẽ có cách vây đánh chúng. Còn việc thuyết cho Ngô Văn Sở nghe theo, ta nghĩ rằng khanh thừa sức để làm việc đó!
Đọc thư xong Ngô Thì Nhậm lại nghĩ thầm:
- Sao Chúa công không lệnh cho Ngô Văn Sở làm theo kế ấy mà phải bảo ta thuyết Ngô Văn Sở. Ấy là Chúa công muốn ta lập công với Văn Sở, Văn Lân, Văn Tuyết đây mà. Chúa công thật là chu đáo, ta dù phơi gan trải mật cũng quyết đáp đền ơn tri ngộ của Chúa công.
Nghĩ xong ngoảnh về Nam lạy ba lạy. Bỗng quân vào báo:
- Đại tư mã Ngô Văn Sở mời tiên sinh sang trướng phủ bàn việc quốc gia.
Ngô Thì Nhậm liền vội vã đi ngay. Đông đủ văn thần võ tướng, Ngô Văn Sở lo lắng nói:
- Chúa công giao cho bọn ta được trọn quyền điều xử mọi việc ở Bắc Hà. Nay quân Thanh mượn cớ phò vua Lê xua binh ba mươi vạn sang xâm lược nước ta. Vậy theo ý các ông ta nên tiến thủ thế nào?
Nguyễn Văn Tuyết bàn:
- Bọn ta là võ tướng hễ giặc đến thì đánh. Nay chúng kéo binh bằng ba đường xâm lược nước ta. Vậy ta phải chia quân làm ba đạo lên biên cương ngăn giặc.
Ngô Văn Sở lắc đầu bảo:
- Đánh giặc tất là phải đánh, nhưng chia quân làm ba đạo là việc không nên.
Tuyết vểnh râu hỏi:
- Vì sao không nên.
Văn Sở đáp:
- Quân ta ở Bắc Hà chỉ non hai vạn, nếu đem ra biên cương sao ngăn được ba mươi vạn quân địch.
Tuyết lại hỏi:
- Theo ý ông ta phải đánh thế nào?
Sở đáp:
- Giặc chia quân làm ba đạo tiến theo đường Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Nhưng ba đường này đều gặp nhau ở bờ Bắc sông Như Nguyệt mới đến được Thăng Long. Từ ngàn xưa đến nay ông cha ta đều dựa vào sông Như Nguyệt này làm hào chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Bài thơ do Lý Thường Kiệt làm ra giả là của thần để kích động tinh thần chiến đấu của quân sĩ rằng:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành đã định tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
cũng ở sông Như Nguyệt này đấy. Vậy ta nên lệnh toàn quân các trấn lui về cố thủ ở bờ Nam sông Như Nguyệt rồi cấp báo cho Chúa công đem đại binh ra đánh, đó mới là thượng sách.
Ngô Thì Nhậm khen Ngô Văn Sở:
- Ngô tướng quân đã có tài thao lược, thông kinh sử rành văn thơ thật là văn võ toàn tài. Nhưng theo tôi kế của tướng quân chưa phải là thượng sách.
Ngô Văn Sở nghi ngại hỏi:
- Theo Ngô mưu sĩ thế nào mới là thượng sách.
Ngô Thì Nhậm đáp:
- Ta nên bảo toàn lực lượng rút toàn quân về núi Tam Điệp, thủy binh về đóng tại cửa biển Biện Sơn, bỏ Bắc Hà và thành Thăng Long cho giặc. Đó mới là thượng sách.
Phan Văn Lân nãy giờ chưa bàn định gì, nghe Ngô Thì Nhậm nói xong Lân xen vào hỏi:
- Giặc đến chưa đánh đã lui, ngộ nhỡ Chúa công bắt tội bỏ đất cho giặc thì biết ăn nói thế nào. Tôi tuy bất tài cũng xin lãnh binh đến bờ Nam sông Như Nguyệt chặn giặc. Xin Ngô huynh thuận cho.
Văn Sở bảo:
- Văn Lân đừng nóng nảy, cứ để Ngô mưu sĩ nói hết ý xem sao.
Ngô Thì Nhậm giở bản đồ ra nói:
- Trong binh pháp giặc đến thì đánh, đánh không được thì giữ. Nay giặc đông ta ít, vả lại người Bắc Hà lắm kẻ còn trung quân mù quáng vẫn tin rằng nhà Thanh đem quân sang giúp Lê Chiêu Thống. Bởi vậy nên bấy lâu quân sĩ ta có người nào đơn độc đi vào đồng nội rừng hoang đều bị bọn người này giết chết. Quân ít, lòng dân không theo, đánh tất phải thua. Đánh không được còn giữ thì thế nào? Sông Như Nguyệt tuy sâu nhưng thành Thăng Long trống trải. Nếu ta đem quân chặn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt ngộ nhỡ quân Thanh đem thủy binh vào cửa Lục Đầu hoặc cửa Đại An theo sông Nhị Hà đánh chiếm Thăng Long thì quân ta ở sông Như Nguyệt tiến thoái lưỡng nan phải làm thế nào.
Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Tuyết chưa biết trả lời sao, Ngô Thì Nhậm liền nói tiếp:
- Chúa công còn ở tận Phú Xuân đường xa hàng vạn dặm mà quân Thanh ngấp nghé ải Nam Quan. Nước xa không cứu được lửa gần, đánh không được mà giữ cũng không xong, chi bằng ta rút binh lui về ải Tam Điệp. Đây là đường độc đạo muốn ra Bắc vào Nam đều phải qua ải này. Ta dựa vào thế núi hiểm trở chống giặc dù chúng có thiên binh vạn mã cũng chẳng hề chi. Trong có thể khích được lòng quân sĩ, ngoài có thể khiến giặc kiêu căng mà không phòng bị, đợi Chúa công kéo đại binh ra ta sẽ đuổi chúng đi. Ấy là kế “không thành” trên toàn cõi Bắc Hà, xem như ta cho chúng ngủ trọ một đêm nào có hại gì. Nếu Chúa công bắt tội, Ngô Thì Nhậm tôi xin chịu, các vị chớ lo.
Ngô Văn Sở trầm ngâm nói:
- Chúa công bắt tội cả bọn ta cùng chịu sao đổ lỗi một mình ông. Nhưng cách này mới là thượng sách. Vậy phiền Ngô mưu sĩ mau thảo một lá thư giảng hòa, tôi sai người tâm phúc đem dâng Tôn Sĩ Nghị làm kế hoãn binh để ta có đủ thời gian gọi quân các trấn lui về hội tại Thăng Long.
Ngô Thì Nhậm nghe lời lập tức thảo thư. Ngô Văn Sở lại gọi quân đến bảo:
- Hãy đem lệnh bài của ta đến gọi các quan trấn thủ phải kíp lui binh về Thăng Long. Trên đường rút có dừng quân nấu ăn rồi phải xóa ngay mọi dấu vết và vãi gạo sống đầy đường. Ai sai lệnh chém đầu.
Phan Văn Lân đứng lên nói:
- Tôi xin đem một ngàn tinh binh đến sông Như Nguyệt chặn giặc.
Nguyễn Văn Tuyết vội can Lân:
- Đại tư mã vừa hạ lệnh rút binh, ai sai lệnh chém đầu. Sao Văn Lân còn xin đi đánh giặc.
Lân đáp:
- Ấy là tôi làm theo lệnh rút quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở đó chứ.
Tuyết ngạc nhiên hỏi:
- Văn Lân nói vậy là ý thế nào.
Lân đáp:
- Quân các trấn ở Bắc Hà muốn rút về Nam đều phải về hội tại Thăng Long. Nếu ta không ngăn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt để quân Thanh tiến đến Thăng Long ắt quân ta ở các trấn không còn đường rút. Nay tôi xin đem quân chặn giặc cho quân ta ở các trấn kịp lui về . Ấy chẳng phải là làm theo lệnh của Đại tư mã Ngô Văn Sở ư.
Ngô Văn Sở nói:
- Phan đệ muốn đánh giặc Thanh và đã tìm được một lý do rất là chính đáng. Nhưng chỉ xin ngàn quân sao ngăn được giặc?
Lân đáp:
- Quân cốt giỏi chớ chẳng cốt nhiều. Nếu quân Thanh đến được Thăng Long trước quân các trấn của ta rút binh về, Văn Lân tôi xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.
Văn Sở bảo:
- Vậy Phan đệ hãy đi đi. Khi có tin báo quân ta đã lui kịp thì phải lập tức rút ngay.
Phan Văn Lân mừng rỡ lãnh lệnh mà đi.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 49 (tt)



Nói về Tôn Sĩ Nghị đem đại binh đến ải Nam Quan gặp lúc tối trời liền dừng quân đóng trại. Chợt quân vào báo có sứ giả Tây Sơn đến xin ra mắt. Tôn Sĩ Nghị liền cho vào hỏi:
- Nguyễn Huệ sai ngươi đến đây có việc gì?
Sứ giả đáp:
- Chúa công tôi xin Đại tướng quân hãy rút binh về tránh cho hai nước khỏi nạn can qua. Chúa tôi xin lui quân về đất Tây Sơn, trả nước cho vua Lê. Đây là thư Chúa tôi viết, trình đại tướng quân duyệt lãm.
Tôn Sĩ Nghị cầm thư đắc ý cười lớn:
- Ta nghe người nước Nam ca tụng Nguyễn Huệ dùng binh như thần. Sao mới nghe tiếng ta đã mất mật xin giảng hòa. Phen này ta quyết bắt anh em thằng buôn trầu Nhạc - Huệ trị tội dám dấy loạn giết chúa đuổi vua thì cần gì phải xem thư Nguyễn Huệ.
Nói xong Nghị xé toạc thư quăng xuống đất rồi thét võ sĩ lôi sứ Tây Sơn ra chém tức thì. Lê Quýnh và Trần Danh Án là hai sứ thần của vua Lê Chiêu Thống thấy vậy quỳ tâu:
- Đại tướng quân thật là uy vũ anh minh.
Bỗng quân vào báo rằng:
- Thưa đại tướng quân, vua An Nam là Lê Chiêu Thống xin vào ra mắt.
Tôn Sĩ Nghị liền mời vào. Chiêu Thống vào đến, Lê Quýnh và Trần Danh Án cùng quỳ thi lễ rồi vua tôi ôm nhau ứa lệ. Vua Chiêu Thống nói:
- Nhờ hai khanh lội suối trèo đèo sang thiên quốc cầu viện nên đại tướng quân mới đem binh sang giúp. Phen này ắt là đuổi được giặc mạnh Tây Sơn phục hồi nước cũ của Tiên đế.
Chiêu Thống nói xong, Tôn Sĩ Nghị cười lớn mấy hồi. Chiêu Thống ngạc nhiên hỏi:
- Đại tướng quân cười gì mãi thế.
Tôn Sĩ Nghị vừa cười vừa nói:
- Vua tôi các ngươi thật là bất tài nên mới cho Nguyễn Huệ là anh hùng, quân Tây Sơn là giặc mạnh. Đối với ta, chúng chỉ là loài chim chuột mà thôi. Vừa nghe quân ta tới ải Nam Quan, Nguyễn Huệ đã vội sai sứ đến cầu hòa. Ta vừa chém đầu sứ giả của Nguyễn Huệ đó!
Đoạn Nghị quay lại bảo quân:
- Truyền lệnh ta lập tức xuất binh đưa Tân vương về nơi cố quốc.
Quân Thanh tiến liền một mạch đến bờ Bắc sông Như Nguyệt. Nhìn sang bờ Nam thấy đồn lũy quân Tây Sơn canh phòng cẩn mật, Tôn Sĩ Nghị cười bảo:
- Từ ải Nam Quan đến đây, quân Tây Sơn sợ chạy vắt giò lên cổ không dám dừng quân nấu ăn. Chúng lợi dụng sông Như Nguyệt vừa rộng vừa sâu lại là cửa ngõ của thành Thăng Long nên đóng quân ngăn binh thiên triều. Vậy ta hãy tạm nghỉ ngơi chờ hai đạo quân của Sầm Nghi Đống và Ô Đại Kinh đến rồi cùng tiến đánh Thăng Long.
Lê Chiêu Thống ngạc nhiên hỏi:
- Quân Tây Sơn nghe tiếng thiên binh đến đã sợ mà chạy về đây. Nhưng từ biên giới đến đây hết năm, bảy ngày đường chẳng lẽ chúng nhịn đói hay sao mà đại tướng quân bảo chúng không dám dừng quân nấu ăn.
Tôn Sĩ Nghị cười đáp:
- Bệ hạ còn nhỏ không rành binh pháp nên không biết đấy thôi. Trên đường tiến quân ta không thấy bếp lò của giặc mà chỉ thấy gạo rơi vãi đầy đường. Ấy là chúng không dám dừng quân nấu ăn, phải nhai gạo sống mà chạy đó.
Chiêu Thống vỡ lẽ tấm tắc khen:
- Đại tướng quân liệu việc như thần. Quân Tây Sơn quả nhiên sợ uy danh đại tướng quân như sợ cọp. Không biết Sầm Nghi Đống và Ô Đại Kinh có biết việc này mà tiến binh cho nhanh chăng?
*
* *
Nói về Sầm Nghi Đống dẫn quân theo đường Cao Bằng tiến sang nước Nam mà không gặp một sự kháng cự nào. Sầm Nghi Đống bảo quân:
- Chúng bay dò xem trên đường rút chạy, giặc dừng quân nấu nướng ở đâu rồi báo cho ta hay.
Quân đi một hồi quay lại báo:
- Thưa tướng quân, chúng tôi chia quân lùng sục khắp nơi mà không thấy bếp lò nấu ăn của giặc.
Sầm Nghi Đống vừa ôm bụng vừa ngửa mặt lên trời cười lớn mấy hồi. Tả hữu ngạc nhiên hỏi :
- Tướng quân cười gì mãi thế ?
Đống nín cười đáp:
- Trên đường tiến quân ta thấy giặc Tây Sơn để gạo rơi vãi đầy đường, giờ nghe báo không thấy bếp lò nấu ăn của giặc. Ta cười vì nghe quân ta đến đây, giặc Tây Sơn sợ đến nỗi không dám dừng quân nấu ăn phải nhai gạo sống mà chạy. Thật xưa nay chưa từng thấy oai nào lớn như vậy.
Đoạn Sầm Nghi Đống truyền quân thẳng tiến. Đến bờ Bắc sông Như Nguyệt gặp quân Tôn Sĩ Nghị. Nghị họp các tướng nói:
- Nếu ngày nay quân Ô Đại Kinh chưa đến kịp, ngày mai quân ta vẫn tiến đánh Thăng Long.
*
* *
Nói về Ô Đại Kinh dẫn quân theo đường Tuyên Quang tiến vào nước Nam. Trên đường tiến quân thấy gạo rơi vãi khắp nơi, Ô Đại Kinh nghĩ thầm rằng:
- Xưa nay người Nam nước nhỏ ít quân nên giỏi đánh phục binh. Trên đường tiến quân không thấy quân Tây Sơn dừng quân nấu ăn, chỉ thấy gạo rơi vãi đầy đường. Chẳng lẽ chúng nhai gạo sống mà chạy ư? Hay chúng dụ ta khinh thường đem quân vào sâu rồi phục binh đổ ra đánh. Ta phải đề phòng mới được.
Đoạn Ô Đại Kinh bảo quân:
- Mau dừng quân đóng trại canh phòng cẩn mật, cho quân thám mã đi trước dò la tin tức, có gì nghi hoặc phải lập tức phi báo.
Tả hữu hỏi:
- Quân Tây Sơn sợ ta đã bỏ trốn cả, sao tướng quân không gấp tiến vào Thăng Long trước để lập công đầu.
Ô Đại Kinh gạt đi bảo:
- Các ngươi biết gì mà bàn, cứ y lệnh mà làm, quân từ từ mà tiến đề phòng giặc mai phục.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 49 (tt)



Nhắc lại tướng Tây Sơn là Phan Văn Lân đem một ngàn tinh binh đến đóng ở bờ Nam sông Như Nguyệt. Nhìn sang bờ Bắc thấy quân Thanh đông như kiến cỏ, tinh kỳ rợp đất, gươm giáo ngời ngời, Phan Văn Lân bảo quân:
- Các ngươi tuần phòng dọc sông cho nghiêm ngặt, nếu thấy giặc vượt sông lập tức báo ta hay.
Bờ Bắc sông Như Nguyệt Tôn Sĩ Nghị và các tướng ra khỏi doanh trại đi thị sát địa hình. Vua Chiêu Thống lo lắng hỏi:
- Giặc Tây Sơn rút chạy đã phá cầu và thuyền bè, làm cách nào quân ta vượt sông?
Không trả lời vua Chiêu Thống, Sĩ Nghị bảo quân:
- Truyền lệnh ta lập tức bắc cầu phao.
Quân Thanh chặt cây đóng cọc, kết tre làm ván hối hả bắc cầu. Quân Tây Sơn vào báo với Phan Văn Lân:
- Thưa tướng, quân giặc Thanh đang bắc cầu qua sông.
Lân ra ngoài xem xét thấy quân Thanh đã bắc cầu vào tầm đạn đại bác, Lân liền hạ lệnh:
- Mau tập trung súng bắn vào cầu ấy cho ta.
Súng Tây Sơn ầm ầm nhả đạn, cầu quân Thanh lọt vào tầm súng đều đổ vỡ cả. Quân Thanh liền chạy về báo cùng Tôn Sĩ Nghị. Nghị hạ lệnh:
- Thượng Duy Thăng đem một vạn quân chặt tre, chuối làm bè rồi làm hình nộm đặt lên bè, chờ đêm đến thả bè thuận gió bấc trôi sang trại địch.
Thượng Duy Thăng bước ra lãnh lệnh. Nghị lại bảo:
- Trương Triều Long đem năm ngàn quân lên thượng nguồn sông Như Nguyệt tìm chỗ nước cạn vượt sông rồi đánh vào sau lưng địch.
Trương Triều Long bước ra lãnh lệnh. Nghị hăm hở nói:
- Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống đốc thúc toàn quân kết thật nhiều bè chờ Trương Triều Long phá địch ở bờ Nam xong, lập tức sang sông tiến đánh Thăng Long.
Các tướng đồng thanh thưa:
- Đại tướng quân liệu việc hơn người, chúng thần xin tuân mệnh.
Nói rồi ai vào việc nấy.
Bờ Nam sông Như Nguyệt, Phan Văn Lân đốc thúc quân tuần phòng dọc sông thật cẩn mật. Tả hữu hỏi Văn Lân:
- Quân ta chỉ có một ngàn, địch đông hơn hai mươi vạn. Nếu địch lên thượng nguồn đánh vào sau lưng ta thì sao, chi bằng ta rút về Thăng Long cùng Đại tư mã Ngô Văn Sở lui binh vào Tam Điệp là hơn.
Phan Văn Lân bảo:
- Ta nhận lệnh đến đây ngăn giặc cho đại binh ta rút lui. Chưa có lệnh của Ngô huynh ta lui binh sao được.
Xảy quân do thám vào báo rằng:
- Thưa tướng quân, quân Thanh cho chặt rất nhiều tre và chuối, lại ra đồng lấy rơm rạ rất nhiều, chẳng biết định làm gì. Xin tướng quân định liệu.
Phan Văn Lân cười ngất nói:
- Tre, chuối làm bè, rơm rạ làm hình nộm, mẹo vặt này sao lừa ta được. Đêm nay ta tương kế tựu kế đánh chúng một trận mới được.
Nói rồi, Phan Văn Lân sai quân bố trận…
Canh ba đêm ấy Thượng Duy Thăng sai quân cột dây vào bè đẩy ra sông rồi bảo:
- Bao giờ quân Tây Sơn bắn đại bác ra thì cầm dây kéo bè về. Quân Tây Sơn thôi bắn lại thả dây cho bè trôi về địch.
Thượng Duy Thăng quay lại thi lễ rồi thưa với Tôn Sĩ Nghị:
- Tháng mười một đang là mùa gió bấc, bè nghi binh của ta thuận gió thẳng tiến về địch. Phan Văn Lân phen này trúng kế. Chờ Trương Triều Long đánh tập hậu giặc tất phải tan, đại tướng quân thật là thần cơ diệu toán.
Tôn Sĩ Nghị đắc ý bảo:
- Ta đã từng học sách binh thư của tiền nhân nước ta như Tôn Võ binh pháp, Ngô Khởi binh pháp, Khổng Minh binh pháp thì kế mọn này nào đáng kể gì.
Đoạn Tôn Sĩ Nghị hỏi quân:
- Bè nghi binh của ta đã vào tầm đạn của giặc chưa?
Quân đáp:
- Thưa đã vào rồi.
Nghị giật mình nghĩ thầm, bè nghi binh đã vào tầm đạn, sao Phan Văn Lân không bắn. Không có lẽ kế của ta đã lộ rồi sao. Nghĩ xong, Nghị hạ lệnh:
- Thượng Duy Thăng mau đem năm ngàn quân lên thượng nguồn sông Như Nguyệt tiếp ứng cho Trương Triều Long, không được chậm trễ.
Thượng Duy Thăng lãnh quân đi ngay.
Nhắc lại Trương Triều Long đến phía sau doanh trại Tây Sơn thấy cờ quạt chỉnh tề, quân canh súng ống đều hướng xuống sông thì mừng rỡ nói:
- Quân Tây Sơn quả nhiên không phòng bị mặt sau. Ba quân tiến lên.
Quân Thanh hò hét xông thẳng vào. Đến nơi mới hay quân sĩ Tây Sơn toàn là hình nộm, còn súng ống toàn bằng cây gỗ. Trương Triều Long thất kinh than:
- Thôi ta đã trúng kế của quân Tây Sơn rồi. Mau rút quân!
Vừa dứt lời đã nghe một phát pháo lệnh nổ vang. Tên đạn quân Tây Sơn từ ba bên bắn vào như mưa. Quân Thanh năm ngàn hao hết một nửa. Trương Triều Long cầm khiên che tên liều mình dẫn quân theo đường cũ mà rút, bỗng thấy một viên tướng dáng dấp thư sinh, tay cầm trường thương, ngồi trên lưng bạch mã lướt đến chặn đường. Hai bên giáp chiến đánh nhau dữ đội, tiếng hò reo vỡ màn đêm tĩnh mịch. Quân Tây Sơn dũng mãnh, quân Thanh mỗi lúc một lùi. Trương Triều Long nghĩ thầm: Thằng học trò này đánh hăng quá, nếu không liều chết biết chạy đi đâu. Nghĩ rồi liền vung đao bảo quân:
- Giặc Tây Sơn chỉ có ngàn tên, các ngươi chớ sợ. Nay ta đã bị dồn vào mé sông, nếu không quyết đánh đành chịu chết hay sao?
Quân Thanh lại hò hét xông lên, hết lớp này đến lớp khác vẫn không sao mở được đường máu thoát thân. Trong cơn nguy khốn bỗng thấy phía sau quân Tây Sơn hàng ngũ rối loạn. Trương Triều Long mừng rỡ nói lớn:
- Quân ta có viện binh. Mau tiến lên.
Thượng Duy Thăng từ phía sau đánh tới, quân Thanh hai mặt giáp công. Quân Tây Sơn dần dần núng thế. Phan Văn Lân thét quân:
- Mau quay lại phá vây mà rút.
Nói rồi vung trường thương cầm đầu ba quân tả xung hữu đột. Đánh một hồi ngàn quân Tây Sơn dần dần chết cả. Phan Văn Lân đơn thân độc mã thúc ngựa nhắm hướng Nam mà đi, gặp tướng đánh tướng, gặp quân giết quân. Trường thương Văn Lân khi đâm tới xỏ lòi hai ba tên địch, lúc hoành thương lia ngang vỡ đầu đứt cổ năm bảy thằng quân, vung lên rồi bỏ xuống, gặp đao đỡ đao nhằm tên gạt tên vẫn bình tĩnh như đi vào chỗ không người. Quân Thanh sợ hãi không dám xáp lại gần. Thượng Duy Thăng thấy vậy giận lắm bèn vác đao ra chặn Văn Lân mà đánh. Văn Lân đâm lia đâm lịa làm Thượng Duy Thăng đỡ gạt liên hồi vã mồ hôi hột. Văn Lân không ham đánh liền đâm giả một thương rồi thúc ngựa phi ra khỏi trận. Thượng Duy Thăng hô quân đuổi theo. Chạy được vài dặm vừa ra khỏi một cây cầu nhỏ, Lân liền quay lại đứng chặn giữa cầu tay hờm sẵn cung tên. Duy Thăng vừa dẫn quân đuổi đến liền bị Văn Lân bắn một phát, mũi tên nhằm giữa miếng kính tâm, Thăng giật mình gò ngựa bên kia cầu hỏi quân:
- Thằng học trò thua quân còn lại một mình sao không chạy nữa mà chặn ta ở đây?
Tả hữu nghi hoặc đáp:
- Ngươi đâu mà to gan thế. Chúng có mẹo gì chăng. E rằng có mai phục.
Vừa dứt lời nhìn sang thấy một tên quân Tây Sơn phi ngựa từ hướng Nam về phía Văn Lân. Thượng Duy Thăng bảo quân:
- Quả nhiên là chúng có mẹo thật. Bọn bay mau đóng trại canh phòng chờ đại binh đến rồi đánh cũng chẳng muộn gì.
Bên kia cầu tên quân Tây Sơn nhảy xuống ngựa hỏi Phan Văn Lân:
- Quân ta đâu mà tướng quân chỉ có một mình?
Lân đăm đăm ngó sang phía quân Thanh, đáp:
- Ngàn quân ta bị vạn quân địch giết chết cả rồi. Ta thoát được về đây đứng chặn giặc ở cầu này.
Tên quân lại hỏi:
- Một mình sao địch nổi giặc. Sao tướng quân không chạy về Thăng Long.
Lân đáp:
- Ta nhận lệnh ngăn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt cho quân ta từ các trấn về hội tại Thăng Long. Nếu ta bỏ chạy, giặc tiến chiếm Thăng Long, quân các trấn ta tất không còn đường rút.
Tên quân bái lạy Văn Lân rồi nói:
- Lòng trung dũng của tướng quân thật đáng cho người đời khâm phục. Quân các trấn đã kịp rút lui, đại tư mã Ngô Văn Sở sai tôi đến gọi tướng quân lập tức về ngay.
Phan Văn Lân liền quày ngựa theo tên quân chạy về Thăng Long rồi theo đại binh rút về Tam Điệp.
Quân Thanh vượt sông Như Nguyệt vào thành Thăng Long như chỗ không người. Tôn Sĩ Nghị họp các tướng bàn việc quân, Thượng Duy Thăng nói:
- Ta kéo binh đến đâu quân Tây Sơn chỉ lui mà không đánh. Tôi e Nguyễn Huệ dùng kế “không thành”. Xin Đại tướng quân suy xét.
Sĩ Nghị cười bảo:
- Kế “không thành” là phục binh bốn phía chờ địch vào thành rồi đổ ra vây đánh. Nay giặc nghe oai thiên binh bỏ chạy một mạch vào ải Tam Điệp, bỏ toàn cõi Bắc Hà cho ta, thì quân nào đổ ra vây đánh mà bảo là kế “không thành”.
Trương Triều Long thưa:
- Trận Như Nguyệt, Phan Văn Lân tuy thua còn một mình một ngựa chạy về. Quân Tây Sơn chết chỉ một ngàn, còn quân ta hao mất mấy ngàn. Vậy chứng tỏ quân Tây Sơn không phải là không dũng mãnh. Nay chúng bỗng dưng chưa đánh đã rút đại binh về ắt không phải là vô cớ, xin đại tướng quân minh xét.
Tôn Sĩ Nghị hỏi:
- Nếu không phải chúng sợ ta mà chạy, vậy theo ngươi Nguyễn Huệ có kế gì?
Các tướng đều đưa mắt nhìn nhau không ai đoán ra là Nguyễn Huệ có kế gì. Sĩ Nghị nói tiếp:
- Ngô Văn Sở ít quân bỏ Bắc Hà Thăng Long chạy về trấn giữ Tam Điệp, Biện Sơn là nơi hiểm yếu. Đạo làm tướng ai không làm như Ngô Văn Sở, có gì mà các ngươi phải ngại. Nay ta đã sai Lê Chiêu Thống xuống hịch cần vương hiệu triệu dân chúng lập thành quân đội đi trước đánh nhau với quân Tây Sơn. Ấy là không nhọc sức mà lập công to vậy, kế này là kế "dĩ Việt trị Việt” mà tiền nhân nước ta sang đô hộ An Nam vẫn thường làm đó.
Nghe xong các tướng đều khen:
- Đại tướng quân liệu việc sâu sắc chúng tôi không sánh kịp.
Sĩ Nghị đắc ý bảo:
- Ngô Văn Sở nghe oai ta đã bỏ chạy vào Tam Điệp. Từ Tam Điệp đến Thăng Long đường bằng đồng trống không núi non hiểm trở, vậy ta phải lập đồn lũy canh phòng giặc tiến công. Nay ta lệnh cho Trương Triều Long đem ba vạn quân vào làng Hà Hồi cách thành Thăng Long năm mươi dặm đóng đồn lập trại. Thượng Duy Thăng đem năm vạn quân vào làng Ngọc Hồi cách thành Thăng Long hai mươi dặm đóng đồn hạ trại. Hai đồn này làm thế ỷ giốc tiếp ứng cho nhau phòng giữ mặt Nam. Ta nghe quân Tây Sơn là giống người mọi giỏi đánh đường núi, vậy Sầm Nghi Đống hãy đem ba vạn quân đến làng Khương Thượng cách phía Tây thành Thăng Long mười dặm đóng đồn hạ trại. Ta đóng đại binh ở Thăng Long sẽ tùy cơ tiếp ứng. Chờ quân Ô Đại Kinh đến đây ăn tết Nguyên đán xong, ta sẽ xua binh vào Phú Xuân bắt Nguyễn Huệ.
Các tướng cùng bước ra lãnh lệnh, ai vào việc nấy.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 50

Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế.
Vua Quang Trung thỉnh cầu Phu tử.



Nói về Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết rút toàn quân lui về ải Tam Điệp cách thành Thăng Long ba trăm dặm đóng quân. Ngô Văn Sở nói:
- Theo kế Ngô mưu sĩ, binh ta rút an toàn về đây, vậy Nguyễn Văn Tuyết hãy mau về Phú Xuân cấp báo cho Chúa công được biết.
Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu lắc đầu nói:
- Về Phú Xuân cấp báo thì thiếu chi người sao lại sai tôi. Vả lại giặc đông ta ít nếu giặc đem quân đánh tới chỉ có hai ông chống đỡ, tôi không an tâm đi đâu.
Văn Sở an ủi Văn Tuyết:
- Ải Tam Điệp hiểm trở, quân Thanh dù thiên binh vạn mã cũng không thể đánh được ta. Tướng quân hãy an tâm mà đi đi. Vả lại ông có ngựa Xích kỳ ngày chạy ngàn dặm không biết mệt mới mau cấp báo cho Chúa ta đem quân ra đánh giặc cứu dân.
Vỡ lẽ Nguyễn Văn Tuyết nói:
- Nếu vậy tôi xin đi.
Tuyết tạm biệt Sở và Lân, Nhậm rồi lên lưng ngựa Xích kỳ nói lớn:
- Ngựa Xích kỳ! Ngựa Xích kỳ! Hãy phi mau về báo cho Chúa ta được rõ, rằng quân Thanh đã đem binh xâm lược nước ta.
Ngựa Xích kỳ lồng lên nhằm hướng Nam phi mau như gió. Đến Phú Xuân gặp Nguyễn Huệ, Tuyết hổn hển quỳ thưa:
- Tâu Chúa công, vua Càn Long nhà Thanh sai Đại tướng Tôn Sĩ Nghị đem ba mươi vạn đại binh sang xâm lược nước ta!
Nghe Tuyết nói xong, các quan văn võ đều hết thảy giật mình. Nguyễn Huệ điềm nhiên nói:
- Nguyễn Phúc Ánh giết Phạm Văn Tham lấy đất Gia Định mà ta vẫn không đem quân vào đánh, ấy là còn lo việc đánh quân Tàu. Nay chúng sang đây cũng không ngoài dự liệu của ta, cớ sao mới nghe qua các khanh lại lo sợ như thế? Nguyễn Văn Tuyết bình tĩnh mà nghe ta hỏi: Chúng đem quân sang, ở Bắc Hà các ngươi đối phó thế nào?
Nguyễn Văn Tuyết đáp:
- Tôn Sĩ Nghị đem ba mươi vạn quân mượn cớ phò vua Lê Chiêu Thống về nước, chúng chia quân làm ba đạo, theo ba đường Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang sang đánh nước ta. Ngô Văn Sở lệnh toàn quân lui về ải Tam Điệp. Phan Văn Lân đem ngàn tinh binh ra chặn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt làm đoạn hậu cho đại binh rút lui. Vì ít quân bị giặc vây đánh, ngàn quân ta đều chết cả, Phan Văn Lân một mình một ngựa chạy về. Hiện toàn quân ta đã lui về Tam Điệp được an toàn. Thần vội vã về phi báo, xin Chúa công định liệu.
Nguyễn Huệ cười hỏi:
- Kế bảo toàn lực lượng lui về Tam Điệp có phải của Ngô Thì Nhậm chăng?
Tuyết đáp:
- Ấy chính Ià do Ngô Thì Nhậm bày ra.
Nguyễn Huệ lại hỏi:
- Còn kế xóa bếp lò, vãi gạo ra đường cho giặc khinh thường tưởng quân ta phải nhai gạo sống mà chạy có phải của Ngô Văn Sở chăng?
Tuyết đáp:
- Kế ấy là do Ngô Văn Sở bày ra.
Nguyễn Huệ cười lớn nói:
- Hai họ Ngô ở Bắc Hà làm rất tốt. Tôn Sĩ Nghị đã trúng kế “không thành” của ta. Bọn chúng sang xâm lược nước ta lần này chỉ chuốc lấy cái chết mà thôi.
Trần Quang Diệu hỏi:
- Dụ địch vào thành rồi bốn mặt đổ ra vây đánh mới là kế “không thành”. Còn bây giờ ta đã rút quân vào Tam Điệp bỏ Bắc Hà cho giặc chiếm đóng sao Chúa công bảo là kế “không thành”?
Các tướng đồng thanh:
- Lời Trần Quang Diệu rất phải. Xin Chúa công giảng giải.
Nguyễn Huệ ôn tồn đáp:
- Binh pháp xưa nay dụng kế “không thành” như Trần Quang Diệu nói là ta đánh địch khi địch còn trên mình ngựa mặc giáp mang gươm, dù ta có thắng địch nhưng tổn thất không phải là nhỏ. Kế “không thành” của ta là chờ cho giặc cởi giáp bỏ gươm, xuống ngựa nghỉ ngơi rồi mới đánh. Đánh như thế nào tiêu diệt được quân địch còn bên ta vẫn bình yên vô sự, ấy mới là phương châm đánh giặc của ta.
Đặng Văn Long hỏi:
- Ngô Văn Sở đã lui quân về Tam Điệp, còn đại sư huynh đang ở tại Phú Xuân, vậy quân nào phục binh bốn phía đánh địch như kế “không thành”?
Nguyễn Huệ đáp:
- Ấy chính là yếu tố bất ngờ để cho giặc xuống ngựa nghỉ ngơi, quăng gươm cởi giáp. Kế sách đánh giặc ta đã tính toán hết cả rồi, đợi đem đại binh ra Tam Điệp hợp cùng Ngô Văn Sở ta sẽ phân nhiệm sau. Truyền lệnh ta các tướng về kiểm điểm binh mã, ngày mai lập tức xuất quân.
Mưu sĩ Trần Văn Kỷ quỳ tâu:
- Xin Chúa công chớ vội xuất quân.
Nguyễn Huệ ngạc nhiên hỏi:
- Quân Thanh xâm lược nước ta tàn hại đồng bào mỗi một ngày có biết bao người chết. Ta muốn ngay lập tức tiêu diệt lũ giặc bạo tàn kia. Sao Trần trung thư lại bảo ta chớ vội xuất binh?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Nước Nam ta ngoài thì Lê Chiêu Thống rước giặc Thanh về giày xéo non sông đã rõ là một ông vua bán nước, trong thì vua Thái Đức nhu nhược cầu an khiến lòng người ly tán, nên nhân dân bốn cõi đều trông mong vào tài định quốc an dân của Chúa công. Vậy xin Chúa công hãy lên ngôi Hoàng đế cho an lòng trăm họ rồi cất quân đuổi giặc ngoại xâm cũng chẳng muộn gì.
Các quan văn võ cùng quỳ xuống đồng thanh nói:
- Lời Trần tiên sinh rất phải, xin Chúa công hãy lên ngôi Hoàng đế cho an lòng trăm họ mới mong đánh thắng được giặc dữ.
Nguyễn Huệ xua tay nói :
- Việc này thật không nên.
Các quan cùng hỏi:
- Vì sao không nên?
Huệ đáp:
- Ta vốn không có chí làm vua, chẳng qua do thời loạn nên mới giúp Hoàng huynh đánh Nam dẹp Bắc mong đem thái bình về cho trăm họ rồi sẽ mặc áo tơi mang giày cỏ mà ngao du khắp bốn cõi non sông. Nay nhà Tây Sơn đã có Hoàng huynh là vua Thái Đức, ta lại lên làm vua nữa hóa ra ta là kẻ háo danh và nước ta lại có hai vua là việc xưa nay chưa từng có. Vì vậy ta không thể nào lên ngôi được!
Trần Văn Kỷ thưa:
- Vua Thái Đức đã chia lãnh thổ cho Chúa công được quyền cai quản, việc binh bị, việc chính trị đều khác hẳn nhau thì không thể gọi là một nước. Vả lại Chúa công lên làm vua rồi đem quân ra đuổi quân Thanh lấy đất Bắc Hà là lấy ngôi vua Lê không can dự đến vua Thái Đức. Xin Chúa công chớ ngại.
Nguyễn Huệ lo lắng hỏi:
- Ta mấy phen cất quân ra Bắc diệt Trịnh trừ Chỉnh đều lấy tiếng phò Lê. Nay lại dứt Lê e mang tiếng là lừa dân chăng? .
Trần Văn Kỷ chưa kịp đáp bỗng nghe giọng đàn bà nói lớn rằng: .
- Chúa công lên ngôi vua không có gì là lừa dân cả!
Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra chính là Ngọc Hân công chúa, Nguyễn Huệ liền hỏi:
- Nàng đang ở hậu cung sao đến đây?
Ngọc Hân quỳ vừa khóc vừa thưa:
- Thiếp vừa hay tin cháu thiếp là vua Lê Chiêu Thống rước giặc Thanh về tàn hại non sông nên mới đến đây hỏi Chúa công việc đánh giặc thế nào. Tình cờ nghe Chúa công phụ lòng trăm họ chẳng chịu lên ngôi nên có lời mạo phạm, xin Chúa công tha tội.
Nguyễn Huệ hỏi:
- Nàng cũng cho rằng ta lên ngôi là phải lẽ hay sao?
Ngọc Hân đáp:
- Chúa công ra Bắc một dạ tôn phò, trừ loạn thần trả nước cho nhà Lê. Bởi Lê Chiêu Thống bất tài nhu nhược, chẳng biết lo điều chính sự nên trong triều rối ren, ngoài bá tánh loạn lạc. Nay lại rước giặc ngoài về tàn hại dân ta, khiến trăm họ đều ngoảnh mặt trông về Chúa công. Nhà Lê nay không đáng làm vua nữa thì Chúa công lên ngôi cho thỏa lòng mong đợi của trăm họ sao gọi là lừa dân!
Các quan đồng thanh nói thêm vào:
- Lời phu nhân rất phải, xin Chúa công hãy lên ngôi Hoàng đế.
Nguyễn Huệ hỏi Ngọc Hân:
- Nàng khuyên ta lên ngôi là phải lẽ, vậy cớ sao nàng lại khóc?
Ngọc Hân lau nước mắt đáp:
- Thiếp khóc là vì xấu hổ bởi có đứa cháu là phường bán nước buôn dân, và vì thương tiếc cơ nghiệp của tổ tiên. Còn khuyên Chúa công lên ngôi là vì quốc gia dân tộc. Chỉ e rằng Chúa công lên ngôi là mắc tội với vua anh mà thôi!
Nguyễn Huệ đứng lên nói:
- Nàng còn dám vì nghĩa nước mà gạt bỏ tình nhà. Ta lại không sánh bằng một người nữ nhi hay sao!
Bá quan cùng quỳ xuống tung hô:
- Hoàng thượng vạn tuế! Hoàng thượng vạn tuế!
Ngày 25 tháng 11 năm Mậu thân (1788), Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy đế hiệu là Quang Trung.
Vua Quang Trung phong Bùi phu nhân làm Chánh cung Hoàng hậu, phong công chúa Ngọc Hân làm Bắc cung Hoàng hậu, phong con của Chánh cung Hoàng hậu là Quang Toản làm Thái tử.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 50(tt)

Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế.
Vua Quang Trung thỉnh cầu Phu tử..




Đêm ấy vua Quang Trung vào từ biệt Bắc cung Hoàng hậu để ngày mai ra trận. Hoàng hậu Ngọc Hân nói:
- Hoàng thượng ra Bắc lần này, nghe thế giặc mạnh thiếp lấy làm lo lắm.
Vua Quang Trung cười lớn bảo:
- Chẳng qua chỉ nội mười ngày là ta sẽ quét sạch ba mươi vạn quân Mãn Thanh mà thôi. Nàng chớ lo gì.
Hoàng hậu Ngọc Hân gọi tỳ nữ bưng một cái mâm đồng dâng lên tràng kỷ. Hoàng hậu thưa:
- Ngày mai tiễn Hoàng thượng lên đường giết giặc, trong dịp tết Nguyên đán này phu thê kẻ Nam người Bắc, thiếp tự tay gói bánh chưng dâng lên Hoàng thượng gọi là để vợ chồng ăn tết trước.
Vua Quang Trung nhìn đăm đăm vào chiếc bánh chưng đặt trong mâm đồng rồi suy tư hỏi:
- Bánh chưng này thay cơm dùng được năm ngày trong dịp tết, có phải chăng?
Lê Hoàng hậu đáp:
- Thưa phải!
Vua Quang Trung cầm cái bánh chưng hình vuông mân mê trong tay rồi bóp tròn lại vừa vặn tay cầm. Lê Hoàng hậu ngạc nhiên hỏi:
- Bánh này thiếp tự tay nấu cho Hoàng thượng dùng. Sao Hoàng thượng lại bóp nát đi?
Vua Quang Trung bảo:
- Ta vừa nói trong mười ngày là quét sạch quân Mãn Thanh ra ngoài bờ cõi vì còn phải dừng quân để nấu cơm ăn. Nay ta nấu sẵn bánh chưng này thành hình trụ cho vừa tay cầm để quân sĩ vừa hành quân vừa ăn uống không phải nghỉ để nấu cơm thì ta phá giặc chỉ nội năm ngày và ít phải hy sinh anh em nghĩa sĩ.
Lê Hoàng hậu khóc nói:
- Lúc đang ăn còn nghĩ đến việc quân. Tấm lòng vì dân vì nước của Hoàng thượng thật đáng động đến trời. Cầu trời cao phù hộ cho Hoàng thượng mau phá xong giặc dữ.
Vua Quang Trung tạm biệt Hoàng hậu Ngọc Hân. Người nói:
- Ấy chính là nhờ lòng chung thủy của nàng đã giúp ta nghĩ ra được mưu sâu phá giặc.
Hôm sau vua Quang Trung để Thượng Đạo tướng quân Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và Vũ Văn Dũng trấn thủ Phú Xuân, rồi đem Võ Đình Tú, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc kéo tám vạn quân theo vai đường thủy bộ nhằm hướng Bắc trực chỉ.
*
* *
Quân đi đến thành Nghệ An, vua Quang Trung cho dừng quân nghỉ ngơi. Vua bảo Trần Văn Kỷ:
- Ta từ lúc Tây Sơn dấy nghĩa đến nay, lúc nào cũng một lòng chiêu hiền đãi sĩ, đã ba lần cầu La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp ra giúp nước. Nhưng cả ba lần Nguyễn Thiếp đều đưa thư thoái thác. Nay ta muốn nhờ khanh mang thư ta đến vời phu tử một lần nữa xem sao.
Trần Văn Kỷ bàn:
- Nguyễn Thiếp đã mười lăm năm ẩn dật, nghiên cứu Phật học, mắt không nhìn công danh, bỏ tai ngoài thế sự. Chí người đã muốn tu tiên, Hoàng thượng còn mời mọc làm chi.
Vua Quang Trung bảo:
- Nguyễn Thiếp trau dồi đức hạnh đang tu tiên chớ chưa phải là người tiên, bỏ tai ngoài thế sự mà trong lòng mong tế độ chúng sinh. Nếu không như thế sao Nguyễn Thiếp lại thi ân bố đức, nên bá tánh quanh vùng mới gọi là La Sơn Phu tử. Nay ta viết thư gồm mười bốn chữ, tin chắc đọc xong mười bốn chữ này phu tử phải ra. Khanh hãy cảm phiền giúp trẫm một phen nữa!
Trần Văn Kỷ quỳ tâu:
- Hoàng thượng đã xuống lệnh hạ thần nào dám không tuân. Cảm tấm lòng khẩn khoản cầu hiền của Hoàng thượng, Trần Văn Kỷ thần xin hứa hết lòng.
Nói xong Kỷ lãnh thư của vua Quang Trung đi đến Lục Niên Thành mời La Sơn Phu tử.
Đến Lục Niên Thành, Trần Văn Kỷ thấy non xanh nước biếc, đầy hoa thơm cỏ lạ. Trong cảnh bồng lai ấy hiện ra một ngôi nhà nhỏ, trước cổng đề ba chữ: “Hạnh am cốc”. Gặp một tiểu đồng Trần Văn Kỷ hỏi:
- Xin hỏi đây có phải là cư xá của La Sơn Phu tử.
Tiểu đồng hỏi lại Kỷ:
- Quý khách hỏi có việc gì.
Văn Kỷ đáp:
- Tôi xin được diện kiến Phu tử.
Tiểu đồng bảo:
- Xin quý khách cảm phiền chờ ngoài cổng. Thầy tôi đang tham thiền nhập định. Để tôi vào bẩm báo, bao giờ được phép sẽ mở cửa cho quý khách vào.
Tiểu đồng vừa dứt lời cửa nhà trong liền bật mở, một cụ già cốt cách tiên phong, bạc phơ râu tóc bước đến thi lễ cùng Trần Văn Kỷ, rồi vừa quỳ vừa nói:
- Hạ dân Nguyễn Thiếp xin tiếp chiếu chỉ của Hoàng thượng.
Trần Văn Kỷ liền đỡ Nguyễn Thiếp dậy hỏi:
- Tôi vận y phục dân thường sao Phu tử lại biết là sứ giả của vua?
Nguyễn Thiếp chắp tay đáp:
- Tôi mười lăm năm ở ẩn tuy không xuất gia nhưng thành tâm đầu Phật, học phép tham thiền biết quá khứ vị lai, nên mới rõ Hoàng thượng sai Trần Trung thư đến đây trao thư gọi hạ dân ra diện kiến.
Nghe Thiếp nói xong, Trần Văn Kỷ liền trao thư và nói:
- Nay quân Mãn Thanh xua binh ba mươi vạn sang xâm lược nước ta. Vua mới sai tôi trao thư kính cẩn mời Phu tử ra bày kế phá giặc cứu dân.
Nguyễn Thiếp tiếp thư rồi đặt lên tràng kỷ, bảo Trần Văn Kỷ:
- Xin quan Trung Thư Lệnh hãy ngồi nghỉ, tôi vào trong thu xếp rồi sẽ cùng ngài đến diện kiến Hoàng thượng.
Trần Văn Kỷ ngạc nhiên hỏi:
- Sao Phu tử không xem thư của Hoàng thượng.
Thiếp cười đáp:
- Tôi không đọc cũng biết thư vua viết chỉ vỏn vẹn mười bốn chữ:
Quốc gia đã đến lúc hưng vong,
Xin Phu tử bày cho diệu kế.
Trần Văn Kỷ thất kinh nói:
- Vua bảo tôi: Đọc mười bốn chữ này Phu tử phải ra. Hoàng thượng liệu việc như thần. Còn Phu tử quả là bậc thánh vậy.
Nguyễn Thiếp quay vào trong, tiểu đồng hỏi Thiếp:
- Bắc Bình Vương trước đã ba lần đưa thư mời, thầy đều không đến. Nay cớ gì ông ấy mới lên làm vua đưa thư mời, thầy vội vã đi ngay.
Nguyễn Thiếp đáp:
- Ta ba lần chối từ không ra giúp Tây Sơn vì đã không màng thế sự, xem nhẹ công đanh. Nhưng nay nhân dân cả nước đang sục sôi khí thế chống giặc ngoại xâm. Ta đã từng dạy cho thiên hạ là: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Vậy vua vời ta ra hỏi kế phá giặc, ta không đến hóa ra lại không bằng kẻ thất phu sao?
Tiểu đồng khóc hỏi:
- Phen này thầy theo giúp vua bao giờ mới về?
Nguyễn Thiếp cười đáp:
- Ta đến để khỏi mang tiếng với thiên hạ là kẻ thất phu rồi sẽ về ngay, con chớ lo.
Đoạn Thiếp ra xe theo Trần Văn Kỷ đến yết kiến vua Quang Trung. Vua Quang Trung trông thấy Nguyễn Thiếp liền quỳ trước xe thi lễ nói:
- Trẫm hằng trông Phu tử như trời hạn trông mưa. Nay Phu tử chịu ra thật là hồng phúc của muôn dân vậy.
Nguyễn Thiếp thất kinh vội vã xuống xe quỳ lạy vua Quang Trung và nói:
- Thần tuổi đã cao nên đã ba lần chối từ không ra giúp Hoàng thượng, để Hoàng thượng phải nhọc lòng tội thật đáng muôn chết.
Vua Quang Trung đỡ Nguyễn Thiếp dậy mời vào trong, vua chỉ vào áo Nguyễn Thiếp đang mặc rồi nói:
- Phu tử tuổi già sức yếu, nay tháng chạp là mùa Đông gió Bấc, Phu tử mặc cái áo cũ đã ngả màu này chắc là lạnh lắm.
Đoạn vua quay sang bảo quân:
- Mau mang áo mới đến đây cho Phu tử mặc.
Quân đem áo đến, vua Quang Trung tự tay mặc cho Nguyễn Thiếp. Mặc xong vua Quang Trung hỏi:
- Nay quân Tàu lại sang xâm lược nước ta, trẫm thân đem đại binh ra đánh. Xin Phu tử bày cho diệu kế phá giặc cứu dân.
Nguyễn Thiếp đáp:
- Kế phá giặc Hoàng thượng đã sắp đặt cả rồi, chẳng qua chỉ nội năm ngày là Hoàng thượng sẽ quét sạch ngoại xâm ra ngoài bờ cõi mà thôi!
Vua Quang Trung giật mình hỏi:
- Phu tử có biết quân số của giặc là bao nhiêu? Quân số của ta là bao nhiêu chăng?
Thiếp đáp:
- Thần không được biết.
Vua Quang Trung hỏi tiếp:
- Phu tử có biết Tôn Sĩ Nghị là người như thế nào chăng? Quân Thanh đóng binh ở nơi nào chăng?
Thiếp đáp:
- Hoàng thượng có quân thám mã nên biết được địch tình, còn thần ở ẩn chòi tranh nên không được rõ.
Vua Quang Trung lại hỏi:
- Phu tử không biết gì về thực lực hai bên, sao dám quyết rằng quân ta chỉ trong năm ngày là quét sạch quân Mãn Thanh?
Nguyễn Thiếp ôn tồn đáp:
- Thần chỉ dùng phép tham thiền của nhà Phật mà biết được quá khứ vị lai. Không cần tìm hiểu quân tình.
Vua Quang Trung ngạc nhiên nói:
- Nếu không tận mắt trông thấp sao trẫm dám tin Phu tử là thánh nhân như lời đồn được. Vậy xin Phu tử lưu lại trong trướng cùng trẫm bàn kế phá giặc.
Nguyễn Thiếp vòng tay nói:
- Thần chỉ biết mà không làm được. Còn Hoàng thượng là người làm mà biết trước ngày đại thắng ấy mới là bậc thánh. Kế phá giặc Hoàng thượng đã sắp đặt cả rồi, thần không còn gì để bàn nữa cả. Xin Hoàng thượng cho thần lui về tệ xá, ngày sau thay đổi quốc tự thần nhất định sẽ ra.
Vua Quang Trung thất kinh bảo:
- Phu tử thật là thánh nhân vậy!
Đoạn vua đứng lên tiễn Nguyễn Thiếp ra xe. Thiếp tâu :
- Thần xin trả áo lại cho Hoàng thượng.
Nói xong Thiếp toan cởi áo. Vua ngăn lại nói:
- Sá gì một cái áo mà Phu tử khách sáo thế.
Thiếp đáp:
- Không phải thần khách sáo mà do thần nay tuổi già sức yếu, lưng còng mỗi khi đi đều phải chống gậy. Do lưng của thần còng xuống nên vạt áo trước thấp xuống, vướng vào chân không đi được.
Vua Quang Trung liền nói:
- Phu tử cứ cầm gậy mà đi, trẫm xin đỡ vạt áo tiễn Phu tử ra xe.
Nói rồi vua Quang Trung nâng vạt áo trước đưa Nguyễn Thiếp ra tận xe. Tiễn Thiếp đi xong, vua Quang Trung lại dẫn quân Bắc tiến.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 51

Trần Danh Bính đốt tay đi sứ.
Võ Đình Tú mượn ngựa diệt thù.



Ngày kia ở ải Tam Điệp, Ngô Văn Sở nghe quân vào báo có vua Quang Trung đem đại binh đến gần ải. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Ngô Thì Nhậm cùng chắp hai tay ra sau lưng, Sở bảo quân:
- Ngươi mau dùng dây trói bọn ta lại rồi giắt kiếm vào lưng để bọn ta ra chịu tội cùng vua.
Quân nghe lệnh lập tức thi hành. Ra ngoài cửa ải gặp vua Quang Trung đến, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Ngô Thì Nhậm cùng quỳ xuống đồng thanh thưa:
- Thua binh chém tướng, xin Hoàng thượng trị tội!
Vua Quang Trung ngồi trên bành voi bảo quân:
- Mau cởi trói cho ba quan tướng cùng vào đại bản doanh, tội công sẽ luận.
Vào đại bản doanh, vua Quang Trung ngồi nơi hổ tướng, mưu thần, võ tướng đều đứng hầu hai bên, Sở, Lân và Nhậm vẫn quỳ mọp chịu tội. Vua Quang Trung bảo:
- Nay quân Mãn Thanh mượn tiếng phò Lê sang xâm lược nước ta. Quân địch đông mạnh, khí thế đang hăng, Văn Sở, Văn Lân ở Bắc Hà quân ít đánh tất phải thua. Các khanh biết bảo toàn lực lượng lui về giữ nơi hiểm yếu, trong thì khích lòng tướng sĩ, ngoài khiến giặc kiêu căng. Ấy là công sao bảo là tội. Mới nghe qua ta đã biết là kế của Ngô Thì Nhậm, kịp hỏi Văn Tuyết thật quả không sai. Ngô Thì Nhậm là một quan văn nhưng bày thượng sách đánh giặc không ai có thể cao hơn được nữa.
Nói xong vua tự tay rót ngự tửu ban cho Ngô Thì Nhậm. Nhậm lạy tạ đón nhận, khóc nói:
- Ơn tái tạo của Hoàng thượng, Nhậm tôi dù phơi gan trải mật cũng không đền đáp được.
Đoạn Ngô Thì Nhậm quay sang Sở và Lân nói:
- Bọn ta đã thề rút về Tam Điệp có công cùng hưởng có tội cùng chia. Nay vua ban ngự tửu xin mời nhị vị tướng quân dùng trước.
Sở và Lân chưa kịp phản ứng, vua Quang Trung cười bảo:
- Nếu vậy Ngô Thì Nhậm hãy giữ chung rượu ấy chờ ta ban thưởng cho Văn Sở, Văn Lân xong, ba người cùng uống càng vui vẻ chớ sao.
Đoạn vua bảo Ngô Văn Sở:
- Khanh biết nghe lời nói phải, lui quân về Tam Điệp, lập kế xóa bếp lò vãi gạo ra đường khiến Tôn Sĩ Nghị kiêu căng khinh địch, rồi đây quân ta sẽ dễ dàng thủ thắng. Chung rượu này ban thưởng cho khanh.
Ngô Văn Sở đứng lên cầm lấy chung rượu. Vua Quang Trung rót chung thứ ba, Phan Văn Lân vẫn quỳ thưa:
- Hoàng thượng không bắt tội là may mắn lắm rồi, hạ thần sao dám nhận ngự tửu vua ban.
Vua Quang Trung hỏi:
- Sao Văn Lân lại nói thế ?
Lân đáp:
- Hạ thần phụng mệnh đem ngàn quân chặn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt. Thua binh ngàn quân đều chết cả. Tội không kể thì thôi, công gì mà thưởng.
Vua Quang Trung ôn tồn nói:
- Thắng bại là lẽ thường của binh gia, huống hồ Văn Lân chỉ có ngàn quân mà ngăn được hai mươi vạn quân địch, dù còn lại một mình vẫn trên cầu chặn giặc cho các đạo quân ta lui về Tam Điệp được an toàn. Lòng trung nghĩa can trường của Văn Lân không đáng để khen thưởng hay sao?
Phan Văn Lân khóc nói:
- Quân ta kể từ khi Tây Sơn dấy nghĩa đến nay lấy ít địch nhiều, bách chiến bách thắng. Nay thua binh để ngàn anh em nghĩa sĩ phải hy sinh, Văn Lân tôi đau đớn hổ thẹn trong lòng, thật tình không dám nhận thưởng.
Vua Quang Trung bước xuống đỡ Văn Lân dậy rồi an ủi:
- Quân Tây Sơn ta từ trước đến nay một chỉ địch được hai, ba. Nay Văn Lân đánh với giặc đông hơn hai trăm lần dù thua binh có gì mà phải hổ thẹn. Nay ta đem mười vạn đại binh đến đây nhất định tiêu diệt ba mươi vạn quân Mãn Thanh, bắt sống Tôn Sĩ Nghị báo thù cho ngàn anh em nghĩa sĩ của ta. Nhưng chiến công sau này là do các khanh ở Bắc Hà khéo sắp đặt trước, trong đó lại chẳng có công của Văn Lân ư? Hãy mau cầm chung rượu thưởng, chớ phụ lòng ta.
Phan Văn Lân thấy chối từ không tiện bèn đón lấy chung ngự tửu rồi cùng Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm nâng lên uống cạn. Mọi người an tọạ xong vua Quang Trung giở bản đồ ra nói:
- Tôn Sĩ Nghị chia quân đóng đồn Ngọc Hồi, Hà Hồi ở mặt Nam thành Thăng Long, và đồn Khương Thượng ở mặt Tây thành Thăng Long. Đồng thời lại cho bọn cựu thần nhà Lê mộ quân đi trước gần ải Tam Điệp, Nghị cho quân do thám gần doanh trại của ta. Vậy chứng tỏ Nghị chưa phải đã tuyệt đối khinh địch. Nay ta muốn dùng khổ nhục kế khiến quân Thanh xếp giáp cất gươm ăn nghỉ no say mà không phòng bị. Khi ấy ta tiến đánh ắt dễ dàng tiêu diệt giặc và quân ta ít phải tổn thất. Ngặt vì không ai có thể lãnh mạng thi hành kế độc.
Các tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ Đình Tú, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết cùng đứng lên đồng thanh nói:
- Hạ thần xin vâng lệnh thi hành khổ nhục kế!
Vua Quang Trung xua tay bảo:
- Không được. Các khanh đều là đại tướng, nay mai đánh quân Thanh các khanh đều đã được phân sắp đâu đó cả rồi. Không thể làm việc này được!
Vua Quang Trung vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng nói lớn:
- Khổ nhục kế thế nào, hạ thần xin lãnh mạng sang đầu Tôn Sĩ Nghị.
Mọi người giật mình nhìn lại thấy một viên thư lại mặt trắng môi son dáng dấp thanh tao. Vua Quang Trung hỏi:
- Người này là ai?
Trần Văn Kỷ bước ra nói:
- Người này là cháu thần tên Trần Danh Bính, tuổi còn trẻ nhưng trung nghĩa thanh liêm. Thần biết vậy mới cho theo phụ việc văn thư.
Vua Quang Trung hỏi Trần Văn Kỷ:
- Việc này vô cùng quan trọng cho kế hoạch đánh quân Thanh của ta, nên không thể đường đột chọn người. Theo Trần trung thư thì Trần Danh Bính có đáng tin cậy mà giao trọng trách chăng?
Trần Văn Kỷ đáp:
- Trần Danh Bính lòng trung kiên như Bắc Đẩu không dời, tính can trường tựa thái sơn không nhụt. Thần xin đem tánh mạng ra bảo đảm cho Trần Danh Bính.
Trần Danh Bính cởi áo giơ lưng ra nói:
- Xin hoàng thượng hãy sai người đánh thần để làm khổ nhục kế.
Vua Quang Trung bảo:
- Khổ nhục kế này không phải như kế xưa nay thiên hạ vẫn dùng. Kế khổ nhục này không phải ta đánh người của ta rồi sai người ấy mang thương tích trá hàng làm nội ứng, mà ngươi sẽ làm sứ giả mang thư trá hàng của ta đến dâng Tôn Sĩ Nghị. Nghị sẽ tra khảo ngươi để hỏi động tĩnh của ta ở Phú Xuân, ngươi cứ một mực khai rằng ta đang run rẩy ở Phú Xuân, sai ngươi đến xin hàng. Lần này chắc chắn Tôn Sĩ Nghị khinh địch mà xếp giáo cất gươm, ăn ngủ no say. Binh ta đến đánh chúng tất trở tay không kịp. Trọng trách nặng nề như thế ngươi có đảm đương nổi hay chăng? Nếu ngươi bị đau khai thật thì Tôn Sĩ Nghị biết ta đã đến Tam Điệp tất càng đề phòng hơn nữa, hóa ra là ta tự làm hỏng kế của ta. Việc quan trọng như thế nên ta phải dè đặt chọn người.
Trần Danh Bính đáp:
- Kẻ hạ thần có một cách khiến cho Hoàng thượng tin vào lòng can đảm của thần.
Nói xong Trần Danh Bính đốt một cây đèn bạch lạp rồi giơ ngón tay út của mình lên ngọn lửa của cây đèn bạch lạp ấy. Ngón tay bị đốt của Bính phồng dần lên đổi màu vàng và bay mùi khét. Trần Danh Bính mắt mở trừng trừng mồ hôi vã ra như tấm vẫn không hề kêu lên một tiếng. Đốt một hồi Bính lấy tay ra khỏi ngọn lửa thì ngón tay út đã cháy đen như một que củi. Người chứng kiến đều lè lưỡi lắc đầu. Có kẻ khen rằng:
- Gạn dạ như Trần Danh Bính dù Quan Vân Trường đời Hán cũng không sánh kịp.
Trần Danh Bính lấy vạt áo lau mồ hôi nói:
- Dù lóc thịt chặt xương cũng không thể đau đớn hơn thế được. Xin Hoàng thượng mau thi hành diệu kế!
Vua Quang Trung mừng rỡ bảo:
- Khanh thật là người trời sai xuống để giúp quân ta đó. Vậy khanh hãy mang thư ta đến gặp Tôn Sĩ Nghị. Nghị sẽ tra khảo khanh, khanh hãy gắng chịu đau mà nói thế này… thế này… tất Tôn Si Nghị sẽ xếp giáo cất gươm ăn no ngủ say cho quân ta đến đánh. Ấy là khổ nhục kế của ta vậy.
Trần Danh Bính tuân lệnh bèn tạm biệt lên đường.
Đến Thăng Long gặp Tôn Sĩ Nghị, Nghị hỏi Bính:
- Nguyễn Huệ sai ngươi đến đây có việc gì?
Bính đáp:
- Chúa công của kẻ hạ thần khiếp đảm oai trời trong lòng sợ hãi nên sai hạ thần dâng thư xin hàng. Mong Đại tướng quân dung nạp.
Đón thư đọc xong, Nghị cười lớn hỏi:
- Nguyễn Huệ xin ta đến hết Tết Nguyên Đán là ngày mùng sáu sẽ tự thân trói mình ra Thăng Long chịu tội. Vậy ta hỏi ngươi Nguyễn Huệ đang ở đâu. Nghe quân ta đến đây hắn phản ứng thế nào.
Bính vờ sợ hãi đáp:
- Chúa công của hạ thần ở Phú Xuân ngày quên ăn, đêm bỏ ngủ. Nghe Đại tướng quân đến đây người vội sai thần đem thư xin hàng. Đại tướng quân vừa đọc thư xong sao còn hỏi?
Nghị vỗ án quát:
- Láo xược! Ta nghe người nước Nam đồn rằng Nguyễn Huệ anh hùng lão luyện vào Nam ra Bắc xuất quỷ nhập thần. Sao nay lại dễ dàng quy hàng như thế? Ngươi mau khai thật, nếu không sẽ sai quân dùng cực hình tra khảo.
Trần Danh Bính run rẩy đáp:
- Anh hùng ở An Nam cũng không sánh bằng thất phu ở đất Bắc. Huống hồ Đại tướng quân là nhân tài kiệt hiệt, Chúa công của hạ thần dám đâu chống lại oai trời.
Tôn Sĩ Nghị bảo:
- Lời ngươi nói ta vẫn chưa tin. Võ sĩ mau chặt ngón tay của nó cho ta.
Quân võ sĩ nọc Bính ra chặt đứt một ngón tay. Bính đau đớn rên la cầu xin tha tội. Nghị quát hỏi:
- Nguyễn Huệ ở Phú Xuân động tĩnh thế nào. Mau khai ra?
Bính dập đầu thưa:
- Sự thật hạ thần đã nói rồi. Xin tướng quân tha cho!
Nghị vỗ án quát:
- Chặt tay nữa cho ta.
Võ sĩ chặt đứt chín ngón tay của Bính, Bính vẫn một mực khai như thế. Tôn Sĩ Nghị bảo quân:
- Mau lôi ra ngoài chém!
Bính hỏi:
- Hai nước đánh nhau không nên chém sứ, huống hồ Chúa của hạ thần đã xin hàng sao lại chém thần.
Nghị không đáp phất tay bảo quân:
- Mau đem ra chém!
Võ sĩ lôi Bính đi, Bính ngoảnh lại mắng:
- Tôn Sĩ Nghị! Mày là phường man di mọi rợ. Không ngờ Chúa ta lại chịu hàng một thằng mọi rợ như mày.
Quân đem đầu Trần Danh Bính vào dâng trước án. Nghị hỏi:
- Trước khi bị chém Bính có nói gì chăng.
Quân đáp :
- Hắn có nói rằng: Ta bị chết thảm cũng do ta phò Chúa nhu nhược ươn hèn.
Nghị vỗ tay cười lớn bảo:
- Nguyễn Huệ quả nhiên sợ ta như cọp không dám động binh. Truyền lệnh ta cho quân ăn chơi thỏa thích trong dịp Tết Nguyên Đán, đợi đến mùng sáu tháng giêng năm Kỷ Dậu sẽ cất quân vào Phú Xuân bắt Nguyễn Huệ.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 51(tt)



Nói về vua Quang Trung trong đại bản doanh ở ải Tam Điệp nghe quân do thám về báo:
- Tôn Sĩ Nghị chém đầu quan Chánh Sứ Trần Danh Bính. Nghị lại cho quân ăn chơi thỏa thích trong dịp Tết Nguyên Đán. Nghe quân Thanh đồn rằng mùng sáu sẽ cất quân vào Phú Xuân bắt Bệ hạ.
Vua Quang Trung vỗ tay bảo:
- Tôn Sĩ Nghị quả nhiên trúng kế. Nhưng ta không ngờ nước Tàu tự xưng là văn hóa xem bốn bên là Bắc rợ, Nam man, Tây di lại đi chém sứ của ta. Thương thay Trần Danh Bính! Phen này phải bắt Tôn Sĩ Nghị báo thù Trần Danh Bính!
Đặng Văn Long hỏi:
- Vậy Bệ hạ còn chờ gì mà chưa xuống lệnh xuất quân?
Vua Quang Trung đáp:
- Chưa được!
- Vì sao chưa được?
- Hiện có năm mươi tên quân Thanh do thám ở cách ải Tam Điệp hai mươi dặm, nếu ta tiến binh bọn do thám này chạy về báo tin cho Trương Triều Long ở Hạ Hồi thì quân cơ bại lộ, và Trần Danh Bính phải chết vô ích. Vậy phải tiêu diệt bọn quân do thám này thì trong ngoài kín mít như bưng. Ta đến nơi mà Tôn Sĩ Nghị không hề hay biết.
Phan Văn Lân bước ra thưa:
- Thần xin đem hai trăm quân đi giết hết bọn do thám này.
Vua Quang Trung xua tay nói:
- Không được. Quân Thanh cưỡi giống ngựa phương Bắc cao lớn chạy nhanh, ngựa của ta không thể nào đuổi kịp. Nếu Văn Lân tiến đánh thế, nhất định cũng có tên thoát được.
Võ Đình Tú bước ra tâu:
- Xin Bệ hạ cho thần mượn một vật. Thần sẽ đơn thân độc mã ra bắt năm mươi tên quân do thám ấy.
Vua Quang Trung hỏi:
- Đình Tú muốn mượn vật gì?
Tú đáp:
- Thần xin mượn ngựa Xích kỳ của Nguyễn Văn Tuyết!
Vua Quang Trung lại hỏi :
- Nếu khanh để quân do thám này có một tên thoát được làm lộ quân cơ của ta thì thế nào?
Tú đáp:
- Thần xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.
Vua Quang Trung cả mừng nói:
- Phiền Văn Tuyết hãy cho Đình Tú mượn ngựa Xích Kỳ.
Nói xong rót rượu tiễn Võ Đình Tú. Tú cưỡi ngựa Xích Kỳ nhằm hướng Bắc trực chỉ. Gặp toán quân Thanh do thám, Tú chẳng nói chẳng rằng vung côn đồng xông vào đánh giết. Quân Thanh hò nhau vây Đình Tú vào giữa, Tú tả xung hữu đột côn lia đến đâu địch quân phọt óc vỡ đầu. Đánh một hồi quân Thanh chết hơn phân nửa, còn lại hai mươi tên hò nhau bỏ chạy. Ngựa Xích kỳ phi mau quá, quân Thanh hốt hoảng bỏ chạy tứ tán. Đình Tú nhanh tay lẹ mắt, gần thì vung côn đánh chết, xa thì trương cung xạ tiễn, năm mươi tên quân Thanh do thám đều tử trận dưới tay Tú. Tú liền nhảy xuống ngựa cắt năm mươi cái đuôi tóc của bọn quân Thanh rồi lên ngựa phi về báo với vua Quang Trung rằng:
- Tâu Hoàng thượng, thần đã giết xong năm mươi tên quân Thanh do thám.
Vua Quang Trung hỏi:
- Lấy gì làm chắc rằng khanh đã giết hết năm mươi tên quân Thanh do thám đó.
Đình Tú liền gọi quân mang vào bó tóc đuôi sam rồi nói:
- Đủ năm mươi cái không thiếu cái nào. Xin Hoàng thượng xem xét.
Vua Quang Trung mừng rỡ khen:
- Vũ dũng như Đình Tú thật là hiếm có. Khanh đã lập được công đầu trong cuộc đại phá quân Thanh rồi vậy. Các tướng hãy sẵn sàng nghe lệnh.
Mọi người đồng thanh nói:
- Chúng thần đang chờ lệnh giết giặc cứu dân.
Vua Quang Trung bảo:
- Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết đem trăm đại thuyền và một vạn quân theo đường bể ra Bắc vào sông Lục Đầu. Đến nơi hai tướng chia quân làm hai cánh, Nguyễn Văn Tuyết dùng thủy binh đánh chiếm đất Hải Dương ở phía Đông thành Thăng Long, phô trương thanh thế làm kế nghi binh, khiến Tôn Sĩ Nghị sợ không dám theo đường biển chạy về nước. Nguyễn Văn Lộc đem quân bộ đi gấp lên Kinh Bắc đến làng Phương Nhãn chiếm núi Yên Thế rồi án binh bất động chờ Tôn Sĩ Nghị chạy về thì đổ ra đánh bắt cho được Tôn Sĩ Nghị.
Lộc và Tuyết bước ra lãnh lệnh. Vua Quang Trung dặn :
- Văn Lộc đến phục ở núi Yên Thế vào đêm mùng bốn tết. Nếu chậm hơn, chém!
Lộc sợ hãi quỳ tâu:
- Hoàng thượng muốn giết, thần xin được chết ở đây chứ hạ thần không dám lãnh trọng trách này.
Vua Quang Trung cười hỏi:
- Ta lựa người vũ dũng chặn đường về bắt Tôn Sĩ Nghị. Năm xưa Lộc bị Đông Sơn Đỗ Thành Nhân vây ở ấp Hòa Hưng một đánh hai mà lui được giặc, sao nay lại lo sợ thế?
Đoạn vua than rằng:
- Thế mới biết cái oai của nước Tàu thật là to lớn vậy!
Văn Lộc tức tối nói:
- Nước Tàu đã từng bị cha ông ta đánh ôm đầu chạy về nước thì có gì thần phải sợ chúng. Nhưng thần e rằng trong bốn ngày không thể đến được Yên Thế mà thôi.
Vua Quang Trung hỏi:
- Vì sao trong bốn ngày không đến được Yên Thế.
Lộc đáp:
- Thần và Nguyễn Văn Tuyết là hai tướng thủy binh nên rất rõ việc này. Nay đang là tháng chạp mưa phùn gió bấc, từ đây đến cửa Lục Đầu vào Yên Thế đường xa diệu vợi, ngược hướng gió không thể trong bốn ngày mà đến nơi cho được.
Vua Quang Trung hỏi:
- Nếu trong ngày mùng bốn có gió Đông nam thổi mạnh thì đến đêm có thể đến được Yên Thế được chăng.
Nguyễn Văn Lộc đáp:
- Nếu vậy chắc chắn là đến kịp để bày trận mai phục.
Vua Quang Trung hạ lệnh:
- Tuyết và Lộc hãy lãnh binh phù lập tức xuất quân. Gió Bấc nhẹ thì sai quân dùng chèo mà đi, gió Bấc mạnh thì dong buồm theo hình chữ chi mà tiến. Đầu giờ Ngọ ngày mùng ba tết sẽ có gió Đông nam thổi mạnh đến giờ Ngọ ngày mùng bốn tết. Nếu không đến nơi kịp chặn đường về của Tôn Sĩ Nghị lệnh chém đầu.
Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu hỏi:
- Xin hỏi Hoàng thượng mùa này mưa phùn gió Bấc hơi lạnh cắt da thì lấy đâu ra gió Đông nam. Và nếu không có gió Đông nam thì thế nào?
Vua Quang Trung cười đáp:
- Nếu đến ngày ấy mà không có gió Đông nam hai tướng cứ kéo quân về. Ta lấy lý gì mà bắt tội hai tướng được.
Nguyễn Văn Lộc xen vào hỏi:
- Nếu đúng vậy thần sẽ chặn đường về của Tôn Sĩ Nghị trong đêm mùng bốn. Vậy Hoàng thượng nghĩ rằng chỉ trong năm ngày ta đuổi quân Thanh ra khỏi Thăng Long sao? Trong lúc quân chúng đông gấp ba lần quân ta.
Không trả lời Văn Lộc, vua Quang Trung hỏi:
- Nếu trong năm ngày ta đuổi Tôn Sĩ Nghị ra khỏi Thăng Long chạy về Yên Thế mà Văn Lộc không bắt được Tôn Sĩ Nghị thì thế nào?
Lộc đáp:
- Nếu Hoàng thượng làm được điều kỳ diệu thế, mà Lộc tôi không bắt được Tôn Sĩ Nghị, xin chịu tội theo quân pháp.
Vua Quang Trung trao binh phù cho Văn Lộc xong, quay sang Văn Long vua bảo:
- Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đem ba vạn quân theo đường núi ở phía Tây đường đại lộ, đến làng Nhân Mục đánh vào đồn Khương Thượng ở phía Tây nam thành Thăng Long. Chiếm được Khương Thượng rồi Long và Phong phải thừa thắng đánh Thăng Long, đuổi Tôn Sĩ Nghị. Mất Thăng Long, quân của Thượng Duy Thăng ở Ngọc Hồi và Trương Triều Long ở Hà Hồi tất không còn đường rút. Phen này ta quyết tiêu diệt quân xâm lược Mãn Thanh báo thù cho dân ta mới hả dạ. Đánh trận này là nhờ vào trọng trách của hai ngươi, phải tốc chiến tốc thắng. Nếu đến ngày mùng năm tết Kỷ Dậu không chiếm được thành Thăng Long, chém!
Đặng Văn Long nói mát rằng:
- Xét theo lẽ quân thần, hạ thần và Hoàng thượng là nghĩa vua tôi. Xét theo tình riêng, thần với đại sư huynh là huynh đệ đồng sư môn thọ giáo thầy Trương Văn Hiến thuở còn để chỏm. Nếu Đại sư huynh bảo chết, Văn Long tôi xin chết, cần gì phải mượn quân pháp để giết hạ thần.
Vua Quang Trung cười hỏi:
- Sao Văn Long lại bảo là ta muốn giết khanh?
Long đáp:
- Đường đến làng Nhân Mục là đường núi quanh co khúc khuỷu xa đến bốn trăm dặm thì làm sao đi trong bốn ngày mà đến nơi cho được. Chẳng phải là Đại sư huynh muốn giết Long tôi sao?
Vua Quang Trung lại hỏi:
- Đường đến Phương Nhãn, Yên Thế còn xa hơn Khương Thượng rất nhiều mà Nguyễn Văn Lộc dám lãnh mạng đi trong bốn ngày, sao đến Khương Thượng Văn Long lại không dám?
Đặng Văn Long cãi:
- Đường đến Yên Thế tuy xa nhưng đi bằng đường thủy có thể vừa ăn vừa tiến. Còn bộ binh phải dừng quân để nấu ăn, do vậy trong bốn ngày không thể đến nơi được.
Vua Quang Trung gọi quân mang vào một cái bánh, ngoài gói lá chuối đặt lên án rồi nói:
- Việc này ta đã liệu trước nên mới sai người nấu bánh chưng thành hình ống vừa vặn tay cầm gọi là bánh tét. Văn Long cứ việc hành quân, dùng bánh tét thay cơm không cần nghỉ ngơi để nấu ăn. Vậy trong bốn ngày có thể đến Khương Thượng được chưa?
Đặng Xuân Phong xen vào nói:
- Đành rằng bốn ngày có thể tới nơi, nhưng quân ta đi suốt ngày đêm tướng sĩ mỏi mệt sao đánh thắng quân Thanh đang nghỉ ngơi khỏe khoắn được. Binh pháp có câu không lấy quân mệt mà đánh quân khỏe. Xin Hoàng thượng xét lại.
Vua Quang Trung cười bảo:
- Binh thư là cái ai cũng có thể học được. Đánh giặc ngoài binh thư mới bất ngờ chắc thắng. Việc này ta đã tính trước nên mới sai người làm thật nhiều võng. Nay ta cấp cho đạo quân của ngươi, cứ ba người một cái võng; hai người khiêng một người nằm ngủ, thay phiên nhau mà đi. Một ngày gồm mười hai canh giờ, vậy một người vẫn ngủ được bốn canh giờ mà hành quân ngày đêm không nghỉ. Quân ta đến nơi đúng thời gian quy định mà tướng sĩ vẫn mạnh khoẻ như thường.
Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đồng thanh nói:
- Hoàng thượng liệu việc như thần. Danh tướng từ cổ chí kim không ai sánh kịp.
Nói rồi liền bước ra lãnh lấy binh phù.
Vua Quang Trung vỗ án đứng lên chỉ về phương Bắc cao giọng rằng:
- Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lãnh ấn tiên phong đánh hai thành Hà Hồi và Ngọc Hồi. Ta và Võ Đình Tú, Đặng Xuân Bảo cầm trung quân tùy cơ tiếp ứng. Hẹn ngày mùng năm tết cùng vào đến Thăng Long. Truyền lệnh ta quân các đạo lập tức xuất binh.
Quân Tây Sơn đúng giờ giao thừa năm Mậu Thân - Kỷ Dậu (1789) ngựa cất lạt, người ngậm tăm âm thầm mà tiến.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 52

Sầm Nghi Đống treo cổ gò Cây Đa.
Tôn Sĩ Nghị chật cầu phao sông Nhị Hà.



Vua Quang Trung đem quân đến đồn Hạ Hồi vào lúc nửa đêm. Nhìn vào đồn thấy quân kỳ xiêu vẹo, điếm canh trống trải, trong ngoài im ắng, bốn bên phẳng lặng như tờ. Vua Quang Trung bảo Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân:
- Phan Văn Lân đem một cánh quân ra vây mặt Bắc, Ngô Văn Sở đem một cánh quân đến vậy mặt Đông, khi nào nghe loa của ta gọi hàng thì bảo quân đồng loạt dạ rân.
Sở và Lân tuân lệnh lập tức thi hành.
Nói về tướng tiên phong của quân Thanh là Trương Triều Long đem năm vạn quân đông ở đồn Hạ Hồi. Nhân dịp tết Nguyên đán, Trương Triều Long cùng các thuộc hạ ăn uống no say. Tả hữu can rằng:
- Đành rằng này là tết Nguyên đán ai cũng chào đón ăn mừng, nhưng xin tướng quân hay khá đề phòng quân Tây Sơn bất ngờ đánh tới.
Trương Triều Long cả cười nói:
- Ngươi quá lo xa đó thôi. Quân Tây Sơn nào dám đến đánh? Khi quân ta kéo đến ải Nam Quan, Ngô Văn Sở vắt giò lên cổ, không dám dừng quân nấu ăn, phải nhai gạo sống mà chạy một mạch về Tam Điệp. Nguyễn Huệ nghe Tôn Đại tướng quân định mùng sáu tết Kỷ Dậu sẽ cất quân vào bắt tội, sợ đã mất mật nên mới sai Trần Danh Bính làm sứ giả đến xin Tôn Đại tướng quân rằng: "Mùng sáu tết sẽ tự trói ra hàng". Tôn đại tướng quân thị uy chém đầu Trần Danh Bính, ta e rằng hiện Nguyễn Huệ đang lo sợ mà sinh bệnh đừng nói gì đến việc đánh ta. Vả lại ta đã sai năm mươi quân do thám dò xét địch tình ở Tam Điệp, thấy quân Tây Sơn vẫn án binh bất động, vậy các ngươi cứ cùng ta ăn uống no say chớ ngại gì cả.
Trương Triều Long vừa dứt lời bỗng nghe ngoài đồn có tiếng rền vang như sấm. Trương Triều Long thất kinh hỏi:
- Ngoài kia có chuyện gì thế?
Quân canh hớt hải chạy vào báo rằng:
- Thưa tướng quân, giặc Tây Sơn đã bao vây tứ phía, bắc loa gọi hàng, tiếng quân giặc dạ ran như sấm. Quân ta đang say ngủ giật mình thức giấc sợ hãi rối loạn cả lên.
Trương Triều Long tỉnh rượu bàng hoàng than:
- Thôi chết. Ta đã trúng kế của Nguyễn Huệ rồi. Nhưng còn quân do thám của ta đâu, sao không thấy về báo tin?
Than rồi liền nai nịt cầm đao lên ngựa bảo quân:
- Chúng bay không được náo động, theo ta phá vây, chạy về Ngọc Hồi cùng Tả dực Thượng Duy Thăng.
Quân Thanh theo Trương Triều Long liều mình sống ra cửa Bắc, gặp tên, đạn quân Tây Sơn bắn vào chết thôi như rạ. Trương Triều Long cầm khiên đỡ tên đạn cùng quân tin cẩn cố phá vòng vây mà chạy. Bỗng nghe tiếng hét lớn:
- Trương Triều Long chạy đâu cho thoát!
Trương Triệu Long giật mình nhìn kỹ hoá ra là Phan Văn Lân lướt ngựa đến chặn đường. Trương Triều Long mắng Văn Lân rằng:
- Ta dù thất thế lại không giết được một thằng học trò như ngươi sao?
Phan Văn Lân cười lớn nói:
- Hôm trước ở bờ sông Như Nguyệt ta ít quân nên bại trận chạy về. Hôm nay ta sẽ cho ngươi biết học trò nước Nam dùng võ như thế nào!
Nói xong hai đàng kẻ vung đao, người khua thương xáp chiến. Mời vài hiệp Trương Triều Long bị Phan Văn Lân đâm một thương nhằm ngày yết hầu ngã ngựa chết tươi. Quân Thanh thấy chủ tướng chết liền vứt giáo xin hàng. Chiếm thành Hạ Hồi xong, vua Quang Trung lệnh quân thừa thắng tiến đánh Ngọc Hồi.
Tướng Thanh là Tả dực Thượng Duy Thăng đem năm vạn quân trấn giữ Ngọc Hồi. Sáng mùng ba tết Kỷ Dậu quân thám mã về báo cùng Thượng Duy Thăng:
- Thưa tướng quân, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy nửa đâm vây đánh Hạ Hồi, quân ta đang ngủ bị bất ngờ trở tay không kịp. Tướng quân Trương Triều Long tự trận, quân sĩ lớp chết, lớp hàng, không một ai chạy thoát. Hiện quân Tây Sơn đang tiến đến cách thành chừng vài dặm. Xin tướng quân định liệu.
Thượng Duy Thăng giật mình bảo tả hữu:
- Mau sai người về Thăng Long báo tin cùng Tôn Đại tướng quân và xin binh tiếp viện. Ba quân mau chỉnh đốn hàng ngũ phòng thủ kỹ càng.
Nói rồi Thượng Duy Thăng thân lên dài quan sát, thấy quân Tây Sơn đã tiến đến ngoài đồn.
Thượng Duy Thăng cầm cờ lệnh phất lên, súng lớn súng nhỏ quân Thanh nhất tề nhả đạn. Quân Tây Sơn không tiến lên được liền đặt đại bác bắn trả, súng nổ rầm trời, khắp chiến địa mịt mù khỏi lửa. Vua Quang Trung cưỡi voi đứng trên gõ cao quan sát nói với tả hữu rằng:
- Quân Thanh súng lớn bắn xa, hoả lực rất mạnh. Ta nên thu quân tìm kế khác đánh thành mới được.
Nói rồi truyền quân đánh trống thu binh lui năm dặm hạ trại. Vua Quang Trung bảo:
- Ngô Văn Sở mau kén lấy 600 tinh binh đảm lược, võ nghệ hơn người lập thành quân cảm tử sẵn sàng đợi lệnh.
Ngô Văn Sở tuân mệnh đi ngay. Vua lại truyền:
- Phan Văn Lân mau sai quân dùng ván gỗ đóng ghép lại thành từng tấm cao 5 thước, rộng 20 thước phải làm cho đủ 50 tấm, lại lấy rơm ướt che phủ mặt ngoài, xong việc đến đây nhận lệnh.
Phan Văn Lân lãnh lệnh đi ngay. Hồi lâu Ngô Văn Sở về báo:
- Tâu Hoàng thượng, quân cảm tử đã chọn xong đang chờ lệnh.
Phan Văn Lân về báo:
- Tâu Hoàng thượng, ván đã ghép xong, xin xuất lệnh xuất quân.
Vua Quang Trung bảo:
- Các ngươi cứ án binh bất động, dụng cụ chuẩn ở sẵn sàng, chờ có gió Nồm rồi mới đánh.
Phan Văn Lân nóng lòng hỏi:
- Quân bộ ta giáp chiến, mạnh được yếu thua, sa lại chờ gió Nồm?
Vua Quang Trung cười đáp:
- Quân ta đánh tất phải thắng. Nhưng ta muốn đánh thế nào khiến quân địch không còn đường rút và bị tiêu diệt hoàn toàn. Đánh như thế nào cho sau lần thua trận quân giặc sẽ kính hồn bạt vía, không còn dám lăm le dòm ngó nước ta. muốn vậy phải chờ có gió Nồm rồi mới đánh.
Võ Đình Tú hỏi:
- Vì sao có gió Nồm ta lại tiêu diệt hoàn toàn quân địch?
Vua Quang Trung chỉ tay ra hướng Đông đáp:
- Thuỷ binh Tuyết và Lộc đang chờ gió Nồm xuôi thuyền ra Bắc vào cửa Lục Đầu. Tuyết dùng quân thuỷ chặn mặt Đông, Lộc đem quân bộ mai phục tại núi Yên Thế. Các ngươi đã biết vì sao ta chờ gió Nồm rồi mới đánh hay chưa?
Đặng Xuân Bảo nghi ngờ hỏi:
- Nếu không có gió Nồm thì sao?
Bảo vừa dứt lời, quân cận vệ la lên:
- Đã có gió Nồm! Đã có gió Nồm!
Mọi người nhìn theo hướng chỉ tay của bọn quân sĩ. Lá cờ đỏ mặt trời vàng đã phấp phới trỏ ra hướng Bắc.
Ngô Văn Sở Phan Văn Lân, Võ Đình Tú, Đặng Xuân Báo đồng thanh tâu:
- Hoàng thượng thật là thánh sống, du Hưng Đạo Đại vương có sống lại cũng không thể nào bì kịp. Xin Hoàng thượng xuống lệnh tấn công!
Vua Quang Trung lại xua tay bảo:
- Chưa được!

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 52 (tt)



Các tướng ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. Vua Quang Trung nói:
- Tôn Sĩ Nghị không thể ngờ ta đoán biết gió Nồm điều thuỷ binh ra Bắc và hắn lại càng không thể ngờ trong bốn ngày quân ta có thể đến nơi đánh thành Khương Thượng. Nghị tất sẽ điều binh vào cứu viện Ngọc Hồi, bỏ trống thành Thăng Long cho Văn Long từ Khương Thượng đánh xuống. Hãy chờ thêm chờ thuỷ binh của Lộc và Tuyết đến nơi và Đặng Văn Long đánh Khương Thượng rồi ta sẽ tiến đánh Ngọc Hồi.
Các tướng lại đồng thanh bảo:
- Hoàng thượng dụng binh không mảy may sai lệch. Chúng thần xin bái phục!

***
Nói về đạo quân Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc đem thuỷ binh theo đường biển ngược sông gió chậm chạp tiến quân. Lộc bảo Tuyết:
- Nếu chèo mãi thế này biết bao giờ mới đến được Yên Thế chặn đường Tôn Sĩ Nghị?
Tuyết đáp:
- Hoàng thượng bảo ngày hôm nay sẽ có gió Nồm ta tất đến nơi đúng giờ quy định.
Tuyết vừa dứt lời, gió Bấc đang thổi mạnh bỗng giảm dần rồi ngừng hắn. Trời quang mây tạnh nắng ấm chói chang, gió Nồm từ đâu thổi đến lồng lộng. Nguyễn Văn Lộc phấn khích bảo:
- Hoàng thượng của ta đúng là tiên giáng thế. Quân bay lập tức càng buồm. Tôn Sĩ Nghị phen này ắt không còn đường thoát vậy!
Thuyền Tây Sơn thuận gió Nồm ào ào rẽ sóng tiến về hướng Bắc.

***

Nói về đạo quân Tây Sơn do đại Đô đốc Đặng Văn Long và đô đốc Đặng Xuân Phong theo đường núi mà tiến đến làng Nhân Mục. Quân Tây Sơn cứ ba người một cái vòng thay phiên nhau hai người khiêng một người nghỉ, hành quân đêm ngày không nghỉ, khi đói lột bánh tét mà ăn. Quân Tây Sơn vừa đi vừa bảo nhau rằng:
- Hành quân không dừng lại để ăn, ngủ mà vẫn được ăn, ngủ. Hoàng thượng thật là thần cơ diệu toán.
Đến gần đón Khương Thượng, Đặng Văn Long bảo quân:
- Mau đẹp bỏ võng, bí mật tiến đánh Khương Thượng.
Tướng Thanh giữ đón Khương Thượng là Sầm Nghi Đống đang ngủ bỗng giật mình thức giấc vì tiếng súng nổ ầm ầm, đạn bay đã vỡ. Quân hớt hải vào báo:
- Thưa tướng quân, giặc Tây Sơn từ đâu đổ ra đánh phá dữ đôi. Xin tướng quân định liệu.
Sầm Nghi Đống kinh hồn bạt vía nói:
- Ngày 30 tết chúng án binh bất động ở Tam Điệp, nay mới mùng bốn tết sao chúng đến đây được. Tướng của chúng từ trên trời rơi xuống, quần của chứng từ dưới đất chui lên hay sao mà mau thế. Truyền quân mau theo ta ra ngoài nghênh chiến.
Quân Tây Sơn ùa vào thành như thác đổ, tung hoả hổ mà đốt, lửa cháy rực trời, tiếng trống rền vang, tướng quân reo tở mở. Quân Thanh đương không nổi bị giết rất nhiều, quăng gươm tháo chạy. Sầm Nghi Đống liệu thế không xong bên bờ đồn đem tàn quân chạy về Thăng Long. Đặng Văn Long xua quân đuổi theo truy sát. Thương thay sáu vạn quân Thanh ở Khương Thượng chết thôi như ra, người nó gọi người kia, thây chất thành đống, máu chạy thành khe, sát khí ngất trời, mùi tanh hôi vạn dặm.
Sầm Nghi Đống dẫn quân chạy được năm dặm, bỗng thấy một đạo quân Tây Sơn kéo ra chặn mất đường về, đi đầu là một viên dũng tướng mặc chiến bào đen, mặt đen như nhọ, cầm côn sắt đen, cưỡi ngựa đen. Tướng ấy quát lên như sấm:
- Sầm Nghi Đống chạy đâu cho thoát! Mau xuống ngựa quy hàng, có ta là đô đốc Đặng Xuân Phong chờ ngươi đã lâu.
Sầm Nghi Đống kinh hoàng than:
- Quả nhiên tướng Tây Sơn người mọi đến như than nên chúng đi đường núi mau quá chặn mất đường về, vậy phải liều diệt mà đánh mới được!
Đặng Xuân Phong cười ha hả nói:
- Ngươi bảo ta là mọi, vậy Uất Trì Cung hiệu Kính Đức tướng nhà Đường bên Tàu của ngươi cũng là mọi rợ hay sao?
(Vì câu nói ấy và thấy Đặng Xuân Phong bề ngoài giống Uất Trì Cung nên từ ấy trong quân thường gọi Đặng Xuân Phong là "Trại Kính Đức").
Nói đoạn, Đặng Xuân Phong xua quân đánh giết, phía sau lưng Đặng Văn Long đuổi tràn tời. Quân Tây Sơn thẳng tay tàn sát, quân Thanh không đường chống đỡ kêu khóc vang trời. Có tên quân bảo Sầm Nghi Đống rằng:
- Thưa tướng quân, ở bên đường có một cái gò đất trên gò ấy có cây đa cổ thụ mọc ùm tùm, người quanh vùng gọi là gò Cây Đa. Xin tướng quân mau chạy đến chỗ gò Cây Đa cố thủ chờ viện binh.
Sầm Nghi Đống liền té ngựa chạy về gò Cây Đa, chạy theo còn chừng ngàn quân tin cẩn. Đặng Văn Long trông thấy bảo Đặng Xuân Phong:
- Đệ đuổi theo vây bắt Sầm Nghi Đống, ta thừa thắng tiến đánh Thăng Long.
Nói đoạn anh em họ Đặng chia nhau mà đánh. Đặng Xuân Phong đem quân vậy Cây Đa, hô quân tiến lên giáp chiến. Sầm Nghi Đống liệu bề không thoát được bên bảo quân rằng:
- Phận ta làm tướng của nhà Đại Thanh thua binh chịu chết đã đành, còn các ngươi, sau khi ta chết đi ba quân hãy đầu hàng quân Tây Sơn may ra tìm được con đường sống.
Vài trăm quân hộ vệ quỳ lạy Sầm Nghi Đống, khóc rằng:
- Bọn chúng tôi mang nặng ơn sâu của tướng quân, sống theo tướng quân mà chết cùng theo tướng quân vậy.
Khi Đặng Xuân Phong dẫn quân đến nơi thì thấy Sầm Nghi Đống đã treo cổ trên cành đa mà tự tử, còn vài trăm quân cận vệ đều đâm cổ chết theo chủ tướng.
Đặng Xuân Phong cảm kích nói:
- Cuộc chiến nào cũng có kẻ tà người chính, kết cuộc phải có bên bại bên thắng. Nhưng tấm lòng trung dũng của tướng sĩ họ Sâm thật đáng phục thay!
Khi quân Nam đuổi được quân Thanh về nước, bọn trẻ chăn trâu ra gò Cây Đa thường hát rằng: "Ông Đống treo cổ cây đa!". Vì câu hát ấy, về sau quen miệng nên người nước Nam mới đặt tên gò ấy là gò Đống Đa. Về sau, người khách trú ở Thăng Long lập đền thờ ở ngõ Sầm Công sau Hàng Buồm.
Người đời sau là nữ sĩ Hồ Xuân Hương khi đi ngang qua đến thờ Sầm Nghi Đống bên viết bài thơ vịnh rằng:

Ghé mắt trông qua thấy bảng treo.
Kìa đền thái thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được.
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!


Ấy là việc của đời sau!

***
Nhắc lại Tôn Sĩ Nghị đang vui đón tết ở Thăng Long. Trên bàn tiệc cao lương mỹ vị ê hề, trong trướng phủ mỹ nữ xiêm y lộng lẫy. Bỗng quân ở đồn Ngọc Hồi về cấp báo:

- Thưa Đại tướng quân, Nguyễn Huệ dẫn quân nửa đêm tiến lên vậy đồn Hạ Hồi không một ai hay biết. Tướng quân tiên phong Trương Triều Long tử trận. Nguyễn Huệ lại kéo quân đến đánh Ngọc Hồi, tướng quân Thượng Duy Thăng xin Đại tướng quân điều binh cầu viện.
Tôn Sĩ Nghị nghe qua như sét đánh ngang mày, giật mình nói:
- Trần Danh Bính bị tra khảo đến chết vẫn một mực khai rằng Nguyễn Huệ con run rẩy ở Phú Xuân chờ mùng sáu tết sẽ ra hàng. Sao nay Nguyễn Huệ lại tiến binh đánh ta? Nếu Huệ dùng khổ nhục kế để gạt ta thì kế khổ nhục này thật là kế lạ. Hứa Thế Hanh mau đem năm vạn quân cầu viện Ngọc Hồi.
Hứa Thế Hanh đi rồi quân thám mã mặt Đông về báo:
- Thưa Đại tướng quân, tướng Tây Sơn là đô đốc Nguyễn Văn Tuyết đem quân theo đường thuỷ chiếm lấy Hải Dương, hiện đang vào uy hiếp mặt Đông thành Thăng Long.
Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ ra lệnh:
- Tuỳ tướng Tôn Đường Bảo mau đem hai vạn quân ra phía Đông thành tìm chỗ hiểm yếu chặn giặc.
Tôn Đường Bảo chưa kịp nhận lấy binh phù, bỗng nghe phía Tây súng nổ ầm ầm, nhìn ra phía ấy thấy lửa cháy rực trời, quan hò reo inh ỏi. Một viên tiểu tướng hổn hển chạy vào bảo rằng:
- Thưa Đại tướng quân, tướng giặc Tây Sơn là đại Đô đốc Đặng Văn Long đem quân theo đường núi đánh úp đồn Khương Thượng. Tướng quân Sầm Nghi Đống đương không nổi phải treo cổ tự vẫn. Hiện quân Tây Sơn đã vào cửa Tây thành đánh giết lung tung, quân ta không còn tinh thần chiến đấu, hoảng loạn mà chạy. Xin Đại tướng quân định liệu.
Tôn Sĩ Nghị lực ấy không còn hồn vía nào nữa, bủn rủn chân tay, kinh tâm tán đởm, nhanh tay chụp lấy cái tráp đựng văn thư ấn tín rồi chạy ra ngoài nhảy lên mình ngựa cầm cương toan ra roi. Tôn Dương Bảo chạy theo hỏi:
- Sao Đại tướng quân không mặc giáp trụ?
Nghị đáp:
- Nước đã đến trôn mà còn mặc giáp trụ nỗi gì! Mau đem quân hộ vệ ta chạy về nước kéo không còn tính mạng.
Nói rồi nhằm cửa Bắc thành Thăng Long mà chạy, Tôn Đường Bảo không biết làm thế nào đành đem mấy trăm quân cận vệ chạy theo chủ tướng. Quân Thanh thấy chủ tướng bỏ quân mà chạy thì tán loạn chạy theo. quân Tây Sơn ùa vào thành tha hồ chém giết.
Đặng Văn Long bảo quân hô lớn rằng:
- Bắt sống Tôn Sĩ Nghị báo thù Trần Danh Bính.
Tôn Sĩ Nghị nghe vậy càng hoảng sợ, cắm cổ quất ngựa chạy dài. Ra khỏi thành rồi qua cầu phao bắc ngang sông Nhị Hà, Tôn Sĩ Nghị bảo Tồn Đường Bảo rằng:
- Sống Nhị Hà vừa rộng vừa sâu, ngươi hãy mà chặt dứt cầu này ắt quân Tây Sơn không thể truy đuổi kịp ta được.
Tôn Đường Bảo hỏi:
- Quân ta vừa qua cầu được chừng hơn một vạn nếu chặt đứt cầu còn tính mạng mười vạn quân ta bên ấy đành giao cho giặc Tây Sơn hay sao?
Nghị đáp:
- Quân Tây Sơn hành bình thần tốc, nếu không chặt cầu, chúng đuổi theo thì ta và ngươi phải chết kể gì quân sĩ. Mau theo lệnh ta quay lại chặt cầu.
Tôn Đường Bảo vâng lời quay lại chặt đứt cầu phao sông Nhị.
Thương thay hàng mấy vạn quân Thanh rớt xuống sông chết đuối nhiều đến nỗi sông Nhị Hà rộng đến mấy dặm mà bị nghẽn nước không chảy được.

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 5 trong tổng số 6 trang]

Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6  Next

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết