You are not connected. Please login or register

Tây Sơn bi hùng truyện - Lê Đình Danh

3 posters

Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6  Next

Go down  Thông điệp [Trang 3 trong tổng số 6 trang]

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

ĐẬP TAN NHÀ NGUYỄN.

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 23

Lo nước xa, Lê Quý Đôn trổ tài.
Sợ ma gần, Phạm Ngô Cầu bày kế..



Trong lúc chúa tôi họ Nguyễn ở Gia Định đang đánh giết lẫn nhau, quân do thám Tây Sơn về Qui Nhơn báo cùng Nguyễn Nhạc. Nhạc liền cho mời các tướng đến thương nghị. Nhạc nói:
- Quả nhiên không ngoài dự đoán của Nguyễn Huệ, ta thả Lý Tài và Thế tử Nguyễn Phúc Dương vào Gia Định, làm cho Lý Tài và Đỗ Thành Nhân đánh giết lẫn nhau, Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương cùng tranh ngôi chúa. Hiện nay Thuần và Dương đều xưng Vương hiệu cả khiến tướng sĩ nản chí, lòng dân tan rã. Nay lòng người ở Đàng Trong đều mong ngóng vào chính nghĩa của Tây Sơn ta. Vậy đây là lúc ta phải xưng Vương hiệu cho an lòng mong mỏi của bá tánh.
Nguyễn Huệ can rằng:
- Xin đại huynh chớ vội. Hễ bứt dây thì phải động rừng!
Nhạc phật ý hỏi:
- Lúc trước Huệ bảo ta thả Hoàng tôn Dương cho Dương và Phúc Thuần tranh quyền lực đánh giết lẫn nhau khiến lòng người chán ngán thì ta xưng Vương là hợp lẽ. Nay thời thế đúng như vậy, ta định xưng Vương thì Huệ lại nói bứt dây động rừng là nghĩa làm sao?
Nguyễn Huệ quỳ đáp:
- Thưa đại huynh, hợp lẽ là hợp lẽ ở Đàng Trong, còn đối với họ Trịnh ở Đàng Ngoài thì đại huynh đang thụ phong chức Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân. Nay đại huynh xưng Vương, họ Trịnh sẽ vin vào cớ ấy mà xuất binh đánh ta. Hiện thời ta chưa diệt được họ Nguyễn ở Gia Định mà phải dấy động can qua với họ Trịnh ở mặt Bắc thì thật là thất sách. Xin đại huynh xét lại.
Nhạc miễn cưỡng hỏi:
- Vậy ta phải làm thế nào?
Huệ vẫn quỳ dưới đất tâu:
- Từ khi Hoàng Ngũ Phúc bị bệnh tả lỵ bỏ đất Quảng Nam mà rút về Phú Xuân Thuận Hoá, thì quân ta ở Qui Nhơn do Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú chỉ huy đã tiến ra đánh chiếm lại Quảng Nam. Nay đại huynh hãy sai người khéo nói đi sứ sang Trịnh xin phong làm Quảng Nam trấn thủ để dò xét xem ý tứ của họ thế nào rồi ta sẽ liệu bề tiến thủ.
Bất đắc dĩ, Nhạc bảo:
- Việc này không phải Nguyễn Thung tiên sinh thì còn ai làm nổi!
Nguyễn Thung bước ra thưa:
- Tôi xin vì Chúa công đi sứ sang Trịnh lần nữa!
Nguyễn Huệ nói với Nguyễn Thung:
- Lần trước tiên sinh đi sứ sang Trịnh gặp Hoàng Ngũ Phúc, đại huynh tôi liền được phong làm Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân. Lần này tiên sinh sang gặp Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn ắt phải bị đuổi về, nhưng nếu tiên sinh đi thẳng ra Thăng Long yết kiến Trịnh Sâm, thì buộc lòng Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn phải để cho tiên sinh đi.
Nguyễn Thung lấy làm lạ hỏi:
- Huệ nói thế nghĩa là thế nào? Thật tình tôi không hiểu?
Huệ nói nhỏ với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Thung:
- Đại huynh cứ bảo Nguyễn Thung tiên sinh làm như vầy... như vầy... thì sẽ ra được Thăng Long mà dò ý Trịnh Sâm.
Nhạc và Thung đồng thanh khen:
- Thật là diệu kế!
Nguyễn Thung đến Phú Xuân gặp Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn nói:
- Thưa quan trấn thủ, Tây Sơn hiệu trưởng sai tôi sang dâng sớ xin phong, phiền quan trấn thủ mở cổng thành cho đi qua!
Bùi Thế Đạt nói:
- Trời đã tối, sứ giả hãy về nghỉ nơi công quán. Ngày mai ta sẽ mở cổng thành cho đi.
Nguyễn Thung lui ra, Bùi Thế Đạt liền vời quan tham thị Lê Quý Đôn đến hỏi:
- Nay Nguyễn Nhạc sai sứ ra Thăng Long gặp Chúa thượng dâng sớ xin phong. Theo ông là ý thế nào?
Lê Quý Đôn suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
- Năm xưa Chúa thượng vì lợi dụng quân Tây Sơn đánh họ Nguyễn ở phương Nam, trong lúc quân ta bị dịch tả lỵ ở Quảng Nam nên mới phong cho Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân. Nay quân Tây Sơn đã tiếp quản đất Quảng Nam bỏ trống, lại muốn đem đại binh vào tiêu diệt họ Nguyễn, nhưng sợ ta thừa cơ xâm phạm mặt Bắc, nên Nguyễn Nhạc mới sai sứ xin phong để dò ý Chúa ta như thế nào mà tuỳ cơ ứng biến đó thôi. Ta nhân dịp này khuyên Chúa ta đánh giặc Tây Sơn. Vậy ngài hãy đuổi sứ giả Nguyễn Nhạc về, đừng cho họ ra Thăng Long gặp Chúa xin phong.
Hôm sau Bùi Thế Đạt mời Nguyễn Thung đến hỏi:
- Trước khi đem ra Thăng Long cho Chúa thượng, xin sứ giả cho xem sớ xin phong.
Nguyễn Thung lấy tờ sớ trong tay áo trao cho Bùi Thế Đạt. Đạt đọc xong cười lớn nói:
- Nguyễn Nhạc đã được phong làm Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân, đem binh đi đánh họ Nguyễn ở phương Nam. Nay Chúa Nguyễn đang hùng cứ đất Gia Định, sao Nguyễn Nhạc không đem binh thảo phạt, lại thừa cơ lúc quân ta bị dịch tả lỵ rút khỏi Quảng Nam, mà đem quân chiếm đất Quảng Nam bỏ trống, ấy là ra mặt đối nghịch với Chúa ta. Thế mà dám dâng sớ xin phong làm Quảng Nam trấn thủ là ý thế nào? Ngài hãy về thưa lại cùng Nguyễn Nhạc, ta thừa lệnh của Chúa tự quyết mọi việc ở đất Quảng Nam Thuận hoá, đừng hoài công đến Thăng Long làm gì?
Nguyễn Thung ung dung đáp:
- Khi tướng quân Hoàng Ngũ Phúc sợ dịch tả lỵ mà lui khỏi đất Quảng Nam, Tây Sơn hiệu trưởng ra giữ đất này cứu dân khỏi bệnh, vỗ an bá tánh, phân phát lương thực cho dân nghèo để tỏ rõ đức độ trị quốc an dân của Chúa Tĩnh Đô Vương, thì sao lại bảo là ra mặt đối nghịch cùng Chúa thượng? Vả lại nay tôi vận lệnh Tây Sơn hiệu trưởng đem sổ bộ dân của các tình Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên ra kinh thành Thăng Long dâng cho Chúa thượng. Mỗi phủ bao nhiêu huyện, mỗi huyện gồm bao nhiêu ấp, mỗi ấp được bao nhiêu gia đình đều ghi rõ trong sổ bộ dân này. Tây Sơn hiệu trưởng chiếu theo sổ bộ ấy thu thuế của dân sai tôi đem ra kinh thành nộp cho Chúa thượng. Nay ngài đuổi tôi về, ngộ nhỡ Chúa bắt tội Tây Sơn hiệu trưởng không nộp thuế như hồi họ Nguyễn làm khi xưa, lúc ấy ngài có đứng ra chịu trách nhiệm cho hiệu trưởng được chăng?
Bùi Thế Đạt bảo:
- Nếu Tây Sơn hiệu trưởng nộp sổ bộ và thuế, tôi sẽ sai quân áp tải ra kinh. Ngài cứ quay về không ngại gì cả!
Nguyễn Thung cười nói:
- Ngài nói thế sai rồi! Phàm xưa nay quan các trấn thủ mỗi khi nộp thuế đều tự áp tải về kinh. Chưa từng nghe nói đến việc phải giao cho trấn khác áp tải bao giờ. Nếu ngài cản trở không cho đi tôi xin quay về báo cùng Tây Sơn hiệu trưởng vậy!
Nói rồi vòng tay bái tạ toan lui ra. Lê Quý Đôn bước ra ngăn lại:
- Xin tiên sinh hãy khoan đi, vui lòng cho tôi coi qua sổ bộ xem thử có điều gì gian dối chăng?
Nguyễn Thung liền gọi quân mang sổ bộ vào, Lê Quý Đôn xem qua một lượt, trả lại cho Nguyễn Thung rồi bảo:
- Xin tiên sinh tạm về công quán nghỉ ngơi. Nguyên lúc Hoàng tướng quân chiếm được thành Phú Xuân có tịch biên được sổ bộ dân lưu trữ của các phủ Đàng Trong. Đợi tôi sai ngườI tìm lại rồi ngày mai ngài đem sổ bộ của ngài ra đối chiếu. Nếu quả đúng như vậy sẽ để ngài áp tải số thuế ra kinh.
Nguyễn Thung đi rồi Lê Quý Đôn nói với Bùi Thế Đạt:
- Nay Nguyễn Thung áp tải số thuế của các phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên ra kinh. Nếu ta ngăn trở, Chúa thượng hay được sẽ bắt tội khi quân, nên không thể không cho hắn đi. Nếu Nguyễn Thung đến được Thăng Long gặp Chúa ta, ắt chúa ta thấy cái lợi trước mắt mà phong cho Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ. Câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” đã ứng rồi vậy. Tôi e sau này nước ta nguy mất!
Bùi Thế Đạt nói:
- Nói vậy nghĩa là không có cách nào ngăn họ đi sứ ra kinh. Nhưng theo tôi được biết lúc lúc Chúa Nguyễn bỏ thành Phú Xuân đã mang theo sổ bộ dân của các phủ Đàng Trong chạy vào Gia Định, làm gì có việc Hoàng Ngũ Phúc tịch biên được sổ bộ dân. Vậy sao ông bảo Nguyễn Thung ngày mai đem sổ bộ dân ra đối chiếu là ý thế nào?
Đôn buồn bã đáp:
- Sau khi phong Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ rồi, chúa ta sẽ không đề phòng quân Tây Sơn. Chủ ý của tôi là muốn cho Nguyễn Nhạc biết rằng đất Bắc hà ta không hiếm người tài. Để sau này khi diệt xong nhà Nguyễn, Nhạc dù muốn dòm ngó nước ta cũng dè dặt mà không dám dấy động can qua.
Đôn nói rồi gọi quân đem bút nghiên đến viết một mạch từ đầu đến cuối bốn quyển sổ bộ dân của bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên. Viết xong, Đôn nói:
- Ngày mai ta cứ nói dối rằng đây là sổ bộ dân lưu trữ ở thành Phú Xuân mà Hoàng tướng quân tịch biên được năm xưa. Xin cam đoan không sai sót một chữ nào.
Bùi Thế Đạt thất kinh nói:
- Từ nhỏ đã nghe danh ông là thần đồng nhớ giỏi. Nay tận mắt thấy trí nhớ của ông, thật là quỉ khốc thần sầu!
Ngày sau Nguyễn Thung đem sổ bộ dân ra đối chiếu quả nhiên không sai một chữ nào. Nguyễn Thung tháo mồ hôi hột, vòng tay bái Lê Quý Đôn:
- Nét mực vừa mới ráo, chứng tỏ ngài vừa viết xong. Mới đọc qua sổ bộ một lần mà chép lại không sai một chữ. Tài của ngài thật đáng sợ thay!
Đôn cười bảo:
- Ấy là việc vặt nào có tài cán gì. Đất Bắc Hà còn lắm người tài năng gấp bội. Tôi vì bất tài nên không được ở chốn kinh thành mới vào trấn nhậm Phú Xuân. Ông chớ khen quá lời tôi lấy làm xấu hổ lắm!
Nguyễn Thung vòng tay cáo biệt cùng đoàn tuỳ tùng lên đường ra Thăng Long. Trên đường đi, Thung nói với tả hữu:
- Nếu không nhờ Nguyễn Huệ bày mưu nộp thuế, thì làm gì ta được đi sứ Thăng Long.
***
Ngày ấy ở kinh thành Thăng Long, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm có việc ra ngoài phủ. Sâm bèn bảo quân sắp sẵn xe tứ mã, dùng nghi lễ như một vị vua. Sâm vừa bước lên xe bỗng nhiên trời đất tối sầm, gió thổi ào ào, mây đen vần vũ. Từ trong đám gió bụi kia xảy một người bước ra chặn trước đầu xe. Người ấy mặt mũi khôi ngô, mình mặc áo hoàng bào, đầu vấn khăn vàng, chân đi hài tía. Sân tức giận quát hỏi:
- Ngươi là ai sao dám chặn đường ta?
Người ấy quát lớn:
- Thằng nghịch tặc, ta là Thái tử Lê Duy Vĩ đến đòi mạng ngươi đây!
Nói xong vung gươm chém Trịnh Sâm. Sâm hoảng sợ nhảy tránh, té xuống xe. Quân hậu vệ vội vàng chạy đỡ Sâm dìu vào tướng phủ. Phạm Ngô Cầu lúc nào cũng theo hầu bên cạnh Sâm. Sâm hỏi Phạm Ngô Cầu:
- Khi cơn gió lạ nổi lên ngươi có thấy Thái tử Lê Duy Vĩ hiện ra chăng?
Ngô Cầu ngạc nhiên đáp:
- Cơn gió lạ này rất giống cơn gió lạ lúc hạ thần vào ngục ép Thái tử Lê Duy Vĩ uống thuốc độc mà chết. Nhưng cơn gió lúc nãy hạ thần không trông thấy Thái tử.
Sâm buồn rầu than:
- Ngày trước tuổi trẻ ngông cuồng ta giết chết Thái tử. Nay Thái tử chết oan về tìm ta đòi mạng. Thật là gieo nhân nào gặt quả ấy vậy!
Nói rồi bảo Phạm Ngô Cầu dẹp bỏ nghi lễ thiên tử mình đang dùng. Ngô Cầu rùng mình sởn gai ốc liền vội vã đi ngay. Trịnh Sâm lại sai người tìm tìm những nơi phong cảnh tốt tươi khắp trong thành, ngoài nội xây dựng chùa chiền, lệnh quan sở tại ngày đêm thay nhau cầu đảo luôn luôn cho hồn Thái tử được siêu thoát.
***
Ngày ấy ở kinh thành Thăng Long, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm có việc ra ngoài phủ. Sâm bèn bảo quân sắp sẵn xe tứ mã, dùng nghi lễ như một vị vua. Sâm vừa bước lên xe bỗng nhiên trời đất tối sầm, gió thổi ào ào, mây đen vần vũ. Từ trong đám gió bụi kia xảy một người bước ra chặn trước đầu xe. Người ấy mặt mũi khôi ngô, mình mặc áo hoàng bào, đầu vấn khăn vàng, chân đi hài tía. Sân tức giận quát hỏi:
- Ngươi là ai sao dám chặn đường ta?
Người ấy quát lớn:
- Thằng nghịch tặc, ta là Thái tử Lê Duy Vĩ đến đòi mạng ngươi đây!
Nói xong vung gươm chém Trịnh Sâm. Sâm hoảng sợ nhảy tránh, té xuống xe. Quân hậu vệ vội vàng chạy đỡ Sâm dìu vào tướng phủ. Phạm Ngô Cầu lúc nào cũng theo hầu bên cạnh Sâm. Sâm hỏi Phạm Ngô Cầu:
- Khi cơn gió lạ nổi lên ngươi có thấy Thái tử Lê Duy Vĩ hiện ra chăng?
Ngô Cầu ngạc nhiên đáp:
- Cơn gió lạ này rất giống cơn gió lạ lúc hạ thần vào ngục ép Thái tử Lê Duy Vĩ uống thuốc độc mà chết. Nhưng cơn gió lúc nãy hạ thần không trông thấy Thái tử.
Sâm buồn rầu than:
- Ngày trước tuổi trẻ ngông cuồng ta giết chết Thái tử. Nay Thái tử chết oan về tìm ta đòi mạng. Thật là gieo nhân nào gặt quả ấy vậy!
Nói rồi bảo Phạm Ngô Cầu dẹp bỏ nghi lễ thiên tử mình đang dùng. Ngô Cầu rùng mình sởn gai ốc liền vội vã đi ngay. Trịnh Sâm lại sai người tìm tìm những nơi phong cảnh tốt tươi khắp trong thành, ngoài nội xây dựng chùa chiền, lệnh quan sở tại ngày đêm thay nhau cầu đảo luôn luôn cho hồn Thái tử được siêu thoát.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 23 (tt)



Nói về Nguyễn Thung cùng đoàn tuỳ tùng áp tảI xe vàng bạc lúa thóc ra Thăng Long nộp thuế, thấy khắp nơi đều tấp nập chặt cây, chẻ đá xây dựng chùa chiền, Thung lấy làm lạ hỏI dân:
- Vì sao trong thành ngoài nộI lạI xây cất chùa chiền nhiều như thế?
Dân đáp:
- Năm xưa chúa Trịnh giết chết Thái tử Lê Duy Vĩ, nay Thái tử về đòi mạng chúa, nên chúa lệnh các nơi xây cất chùa chiền cầu đảo cho hồn Thái tử được siêu thoát. Việc này khắp kinh thành ai mà không biết!
Nguyễn Thung quay về nói vớI tả hữu:
- Ấy chẳng qua là làm điều tàn bạo, lương tâm bất ổn, nên tưởng tượng sinh ra mộng mị, chứ làm gì có việc ngườI chét đi lạI về đòi mạng.
Nói xong vào phủ chúa xin yết kiến Trịnh Sâm. Thung dâng sổ bộ dân và sổ bộ thuế bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên. Sâm xong trong lòng rất vui, cườI nói hỉ hả.
Thừa lúc chúa đang vui, Nguyễn Thung dâng sớ của Nguyễn Nhạc xin phong. Sâm xem xong còn chưa quyết, chợt Phạm Ngô Cầu vào báo:
- KhảI Chúa! Có một lão già bày dân hát lờI nhạo báng Chúa thượng, tộI đáng bêu đầu. Hạ thần đã bắt về đây cho Chúa thượng trị tội.
Sâm nhướng mắt hỏI:
- Hát lờI nhạo báng ta như thế nào?
Cầu khúm núm:
- Thưa! Hạ thần không dám nói. Xin giảI hắn vào cho Chúa thượng tra xét.
Nói xong liền lôi tộI nhân vào. TộI nhân là một lão già tuổI quá tám mươi, râu tóc bạc phơ. Sâm quát hỏI:
- Lão già kia! Ngươi bày vẽ dân chúng hát lờI nhạo báng ta là lờI gì?
Lão già thản nhiên đáp:
- Già thấy dân chặt cây đục đá làm chùa chiền buột miện ca rằng: “Dầu xây chín bực phù đồ. Không bằng làm phúc cứu cho một ngườI”. MọI ngườI nghe xong liền bắt chước ca theo. Thật tình già không dám nhạo báng Chúa thượng.
Sâm dịu giọng hỏI:
- Ngươi ca hai câu ấy nghĩa là gì?
Lão già đáp:
- Xin chúa tha tộI, ý già nói rằng trước đây nếu chúa không giết chết Thái tử thì ngày nay cần gì phảI xây dựng chùa chiền khắp nơi như thế.
Sâm hỏI:
- Ngươi không sợ chết sao?
***
Nói về Nguyễn Thung cùng đoàn tuỳ tùng áp tải xe vàng bạc lúa thóc ra Thăng Long nộp thuế, thấy khắp nơi đều tấp nập chặt cây, chẻ đá xây dựng chùa chiền, Thung lấy làm lạ hỏi dân:
- Vì sao trong thành ngoài nội lại xây cất chùa chiền nhiều như thế?
Dân đáp:
- Năm xưa chúa Trịnh giết chết Thái tử Lê Duy Vĩ, nay Thái tử về đòi mạng chúa, nên chúa lệnh các nơi xây cất chùa chiền cầu đảo cho hồn Thái tử được siêu thoát. Việc này khắp kinh thành ai mà không biết!
Nguyễn Thung quay về nói với tả hữu:
- Ấy chẳng qua là làm điều tàn bạo, lương tâm bất ổn, nên tưởng tượng sinh ra mộng mị, chứ làm gì có việc người chết đi lại về đòi mạng.
Nói xong vào phủ chúa xin yết kiến Trịnh Sâm. Thung dâng sổ bộ dân và sổ bộ thuế bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên. Sâm xong trong lòng rất vui, cười nói hỉ hả.
Thừa lúc chúa đang vui, Nguyễn Thung dâng sớ của Nguyễn Nhạc xin phong. Sâm xem xong còn chưa quyết, chợt Phạm Ngô Cầu vào báo:
- Khải Chúa! Có một lão già bày dân hát lời nhạo báng Chúa thượng, tội đáng bêu đầu. Hạ thần đã bắt về đây cho Chúa thượng trị tội.
Sâm nhướng mắt hỏi:
- Hát lời nhạo báng ta như thế nào?
Cầu khúm núm:
- Thưa! Hạ thần không dám nói. Xin giải hắn vào cho Chúa thượng tra xét.
Nói xong liền lôi tội nhân vào. Tội nhân là một lão già tuổi quá tám mươi, râu tóc bạc phơ. Sâm quát hỏi:
- Lão già kia! Ngươi bày vẽ dân chúng hát lời nhạo báng ta là lời gì?
Lão già thản nhiên đáp:
- Già thấy dân chặt cây đục đá làm chùa chiền buột miệng ca rằng: “Dầu xây chín bực phù đồ. Không bằng làm phúc cứu cho một người”. Mọi người nghe xong liền bắt chước ca theo. Thật tình già không dám nhạo báng Chúa thượng.
Sâm dịu giọng hỏi:
- Ngươi ca hai câu ấy nghĩa là gì?
Lão già đáp:
- Xin chúa tha tội, ý già nói rằng trước đây nếu chúa không giết chết Thái tử thì ngày nay cần gì phải xây dựng chùa chiền khắp nơi như thế.
Sâm hỏi:
- Ngươi không sợ chết sao?
Lão già không chút sợ hãi đáp:
- Năm ấy Thái tử mới ngoài ba mươi tuổi còn không sợ chết thay, lão nay đã ngoài tám mươi còn sợ chết nỗi gì!
Phạm Ngô Cầu nổi giận toan lôi ra chém. Sâm khoát tay bảo:
- Hãy tha cho lão được sống. Việc này là do lỗi ở ta – Nói xong nét mặt dàu dàu tâm thần bất định. Sâm bảo Nguyễn Thung:
- Ngươi hãy ra nghỉ ngơi ngoài công quán. Việc Nguyễn Nhạc xin phong ngày khác sẽ bàn đến – Nói xong truyền bãi triều.
Phạm Ngô Cầu về tư dinh nghĩ đến việc hồn Thái tử báo oán, trong lòng lo lắng bèn nói với vợ:
- Năm ấy Tĩnh Đô Vương giết chết Thái tử, nhưng chính ta là người mang thuốc độc vào ngục ép Thái tử uống. Nay Thái tử về đòi mạng chúa ắt sớm muộn gì cũng đến lượt ta.
Vợ Ngô Cầu bàn:
- Thiếp nghe nói hồn ma chỉ quanh quẩn gần nơi bị chết không thể đi xa được. Vậy phu quân hãy xin chúa đi trấn nhậm phương xa thì hồn Thái tử không thể nào theo được.
Cầu than thở:
- Nhưng chúa rất tin cậy ta, Năm ấy giết Thái tử chúa chỉ sai ta. Rồi khi gợi ý các quan về việc sang Tàu xin phong làm vua, chúa cũng bảo ta khởi xướng. E rằng chúa chẳng cho ta đi trấn nơi xa đâu!
Vợ Ngô Cầu hiến kế rằng:
- Nay chúa đang lo lắng vì hồn Thái tử theo báo oán. Phu quân hãy nhờ người nói với chúa rằng hồn Thái tử theo báo oán phu quân nên làm kinh động đến ngọc thể. Vậy chúa hãy cho phu quân đi trấn nhậm phương xa. Hồn Thái tử sẽ theo phu quân mà không ở gần Chúa thượng, thì lo gì mà chúa chẳng cho đi.
Cầu khen:
- Không ngờ nàng lại đa mưu túc trí, nhưng việc này phải nhờ ai?
- Vợ Cầu đáp:
- Phu quân đã bao năm được phong tước Tạo quận công, trong các bạn đồng liêu lại không tin cậy được ai sao?
Bỗng Phạm Ngô Cầu reo lên rằng:
- Đã có một người! Đã có một người!
Nói xong liền đến công quán gặp Nguyễn Thung. Phân ngôi chủ khách xong, Cầu hỏi Thung:
- Việc Tây Sơn hiệu trưởng xin phong làm Quảng Nam trấn thủ, Chúa thượng đã thuận lòng chưa? Sao ông còn ở mãi không về?
Nguyễn Thung đáp:
- Từ hôm ấy đến nay đã mấy ngày rồi tôi xin vào yết kiến nhưng Chúa thượng chẳng tiếp ai. Tôi rất nóng lòng nhưng chẳng biết phải làm sao?
Cầu nói:
- Tôi có một kế khiến Chúa thượng lập tức thuận phong cho Tây Sơn hiệu trưởng.
Thung vội hỏi:
- Kế thế nào xin ông làm ơn chỉ vẽ. Hiệu trưởng ngày sau sẽ hậu tạ quận công!
Cầu kế tai Nguyễn Thung nói nhỏ:
- Ông cứ làm như vầy... như vầy..., ắt chúa sẽ vui mừng thuận cho Tây Sơn hiệu trưởng làm trấn thủ Quảng Nam.
Nguyễn Thung cả mừng nói:
- Xin cảm ơn quận công bày kế, ơn này thật chẳng dám quên.
Ngày sau Nguyễn Thung đến phủ chúa xin vào ra mắt Trịnh Sâm. Quan nội thị bảo:
- Chúa đang bệnh không tiếp ai cả.
Thung nói:
- Nhờ ngài vào bẩm báo cùng Chúa thượng, có sứ giả của Tây Sơn hiệu trưởng xin vào thăm bệnh Chúa thượng.
Quan nội thị vào trong một hồi rồi quay ra mời Nguyễn Thung vào nội phủ. Sâm miễn lễ cho Nguyễn Thung rồi hỏi:
- Có phải tiên sinh nói vào đây thăm bệnh cho ta?
- Thung đáp:
- Chúa thượng thần sắc nhợt nhạt, nhãn quan không định ấy là do tâm thần bất ổn, bởi yêu ma quấy phá. Bệnh này dùng thuốc không thể khỏi!
Sâm lo lắng hỏi:
- Vậy phải làm thế nào?
Thung đáp:
- Việc này không thể nói cho người khác nghe được!
Sâm liền đuổi hết tả hữu ra ngoài. Thung đưa mắt nhìn Phạm Ngô Cầu không nói. Sâm hiểu ý đuổi cả Phạm Ngô Cầu. Bấy giờ Thung mới nói:
- Thần nghe nói năm xưa chính Ngô Cầu đã ép Thái tử uống thuốc độc mà chết. Nay hồn Thái tử về báo oán Phạm Ngô Cầu làm kinh động đến Chúa thượng. Vả lại sách xưa có nói rằng: “Hễ người tướng quí thì kỵ yêu ma”. Tôi xét thấy có quan trấn thủ Bùi Thế Đạt là dũng lược hơn người, oai phong lẫm liệt, lại thêm quan thị lang Lê Quý Đôn là quan thanh liêm, tâm hồn cao thượng. Vậy Chúa thượng hãy vời hai người này về hầu hạ bên cạnh sẽ trấn được yêu ma. Đồng thời Chúa thượng cho Ngô Cầu vào làm trấn thủ Phú Xuân Thuận Hoá, thì hồn Thái tử sẽ theo Ngô Cầu vào Phú Xuân đòi mạng. Chúa thượng tất bình an vô sự.
Trịnh Sâm mừng rỡ khen:
- Cảm ơn tiên sinh bày cho diệu kế trừ yêu ma. Vậy tiên sinh muốn vật chi ta sẵn sàng ban thưởng.
Thung đáp:
- Thần vì vận mệnh quốc gia chứ không có lòng tham vàng ngọc. Xin hỏi Chúa thượng xét việc Tây Sơn hiệu trưởng xin phong như thế nào, để thần sớm được quay về quê quán?
Sâm liền lấy bút nghiên viết chiếu phong Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ, Tuyên uý đại sứ, Cung quận công rồi trao ấn chiếu cho Nguyễn Thung. Thung lạy tạ lui ra. Sâm lại gọi Phạm Ngô Cầu phong làm trấn thủ đất Thuận Hoá, Nguyễn Lệnh Tân làm tham thị vào thay Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn. Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn được triệu hồi về Thăng Long.
Về đến công quán, Nguyễn Thung vui mừng nói với tả hữu:
- Phạm Ngô Cầu là người tàn ác tham lam và nhu nhược. Nếu Ngô Cầu vào trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá, là trời đã bày ra chuyện yêu ma mà giúp cho Chúa công ta vậy.
Nguyễn Thung đem chiếu và ấn về Qui Nhơn dâng lên Nguyễn Nhạc. Nguyễn Huệ nói:
- Trịnh Sâm không được làm vua nên chẳng màng đến việc mở mang bờ cõi về phía Nam. Phạm Ngô Cầu bất tài nhu nhược thì ta không lo bị tấn công ở mặt Bắc. Vậy là đại huynh xưng Vương và phát đại binh vào Gia Định tiêu diệt Chúa Nguyễn được rồi đó!
Năm Đinh Dậu (1777), niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi tám, Nguyễn Nhạc xưng làm Tây Sơn Vương.
Các tướng sĩ đều theo công trạng mà thăng thưởng. Luận công tướng sĩ xong, Nguyễn Thung nói:
- Nay Chúa công vừa mới xưng Vương nên sai tướng đem đại binh vào Gia Định dẹp yên họ Nguyễn, thống nhất toàn cõi Đàng Trong để tỏ rõ chí hướng của Chúa công cho thiên hạ biết vậy.
Nguyễn Nhạc gật đầu nói:
- Tiên sinh nói rất phải, phen này phải đập tan họ Nguyễn ở đất Gia Định, bắt cho được hai chúa Thái thượng vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương. Vậy ai dám lãnh trọng trách này?
Các tướng đồng thanh nói:
- Ngoài tướng quân Nguyễn Huệ không ai làm nổi!
Nhạc hỏi Huệ:
- Em có dám lãnh trọng trách này chăng?
Huệ bước ra đáp:
- Nếu không bình định được đất Gia Định, thống nhất cõi Đàng Trong, bắt chúa nhà Nguyễn, Huệ tôi thề quyết không về.
Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ lãnh thuỷ binh hai vạn, đem theo các tướng Nguyễn Lữ, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Đặng văn Long, Bùi Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Phạm Ngạn, Nguyễn Uy và Lê Chu vượt biển tiến vào Gia Định đánh chúa Nguyễn

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 24

Dạ con nít, Đỗ Thành Nhân treo xác Lý Tài.
Bụng đàn bà, Bùi Thị Xuân tha mạng Phúc Ánh.




Nói về Nguyễn Huệ vâng lệnh Nguyễn Nhạc đem hai vạn thuỷ binh vào Gia Định đánh chúa Nguyễn. Đến cửa bể Cần Giờ, Nguyễn Huệ cho dừng quân, mời các tướng lên soái thuyền nhận lệnh. Huệ giở bản đồ ra rồi hạ lệnh:
- Nguyễn Lữ làm chánh tướng, Đặng Văn Long phó tướng cùng Đặng Xuân Phong, Đặng Xuân Bảo và Phạm Ngạn dẫn một vạn quân theo sông Đồng Nai, tiến đánh chiếm thành Trấn Biên rồi Lữ và Long chia binh làm ba cánh. Một là cho Đặng Xuân Bảo lãnh một ngàn quân đi đường tắt đến con đường sang nước Cao Miên ở phía Tây thành Sài Côn đốt lửa làm kế nghi binh, không cho Lý Tài ở thành Sài Côn chạy trốn sang Cao Miên. Cánh thứ hai là Nguyễn Lữ và Phạm Ngạn lãnh ba ngàn quân ở lại giữ Trấn Biên đề phòng tiếp ứng cho Đặng Xuân Bảo. Cánh thứ ba là Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đem sáu ngàn binh mã tiến ra đánh chiếm Bình Thuận, Diên Khánh và ải Vân Phong.
Nguyễn Lữ nghe xong lãnh lấy lệnh bài. Nguyễn Huệ lại truyền:
- Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Uy lãnh bốn ngàn quân vào cửa biển Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến lên đánh lấy thành Trường Đồn (nay là Mỹ Tho). Chiếm được thành rồi, ba tướng phải canh phòng cẩn mật không cho quân của Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên đem binh tiếp viện, đồng thời chẹn đường rút binh của chúa Nguyễn từ thành Sài Côn về Hà Tiên, làm cho chúng hai đầu không cứu ứng với nhau được. Các tướng nên nhớ trận này vô cùng quan trọng, phải tốc chiến tốc thắng tiêu diệt bằng được họ Nguyễn ở Gia Định rồi lập tức rút binh về Qui Nhơn đề phòng họ Trịnh đánh ta nơi mặt Bắc.
Các tướng đều hăng hái nhận lệnh đi ngay. Bỗng Trần Quang Diệu bước ra nói:
- Các tướng đều đã dẫn quân ra trận. Còn thành Sài Côn do Lý Tài trấn giữ, vợ chồng tôi xin lãnh binh tiên phong chiếm thành.
Nguyễn Huệ cười rằng:
- Thành Sài Côn không cần phải đánh, ta chỉ đem chiến thuyền và hai ngàn quân tiến theo sông Thị Nghè làm kế nghi binh. Đợi khi Nguyễn Lữ và Đặng Văn Long chiếm xong thành Trấn Biên, Lý Tài ắt phải bỏ thành Sài Côn mà chạy vào Trường Đồn. Nơi này có vùng rừng Tam Phụ do quân Đông Sơn Đỗ Thành Nhân hùng cứ.
Thành Nhân mà nghe Lý Tài chạy đến đây ắt sẽ đem quân đón đánh báo thù năm trước Lý Tài đuổi Đỗ Thành Nhân khỏi thành Sài Côn, lấy mất binh quyền. Ấy là ta không đánh mà địch quân phải hao binh tổn tướng gấp hai lần vậy. Đợi hai con hổ này đánh nhau sức cùng lực kiệt xong, dù chúng có tài dời non lấp biển, cũng không thể nào thoát khỏi vòng vây của ta!
Trần Quang Diệu nghe xong nói:
- Tướng quân dùng binh như thần. Nhưng kể từ ngày đến Tây Sơn tụ nghĩa, vợ chồng tôi chịu ơn tướng quân sâu nặng, mà chưa lập được công trạng gì để trả nợ nước. Nay vào đến đất Gia Định này cũng không được cầm quân ra trận thật đáng buồn thay!
Huệ vỗ vai Quang Diệu thân mật nói:
- Quang Diệu chớ buồn, đánh trận này chính vợ chồng Diệu – Xuân là lập nên đại công vậy!
Bùi Thị Xuân hỏi lẫy rằng:
- Không cầm quân ra trận dám hỏi dượng rể sao lại lập nên đại công?
Huệ chỉ vào bản đồ nói:
- Khi chúa tôi nhà Nguyễn chạy vào Trường Đồn thì Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn Tuyết tất đã chiếm được thành Trường Đồn triệt đường về Hà Tiên của địch. Lúc ấy chúa Nguyễn chỉ còn một con đường là xuống thuyền theo sông Tiền Giang ra các cửa bể Cung Hầu và cửa bể Hàm Luông hòng chạy trốn ra ngoài hải đảo mà thôi. Vậy Diệu – Xuân hãy lãnh bốn ngàn binh chia quân mai phục ở các cửa bể này chờ hai chúa Nguyễn chạy ra đón bắt, thì không phải là lập được đại công đó sao.
Diệu và Xuân mừng rỡ tạ ơn rồi lãnh lệnh đi ngay. Ngày hôm sau, Nguyễn Huệ mới gọi Lê Chu và hai ngàn quân dưới quyền mình theo sông Thị Nghè từ từ tiến về Sài Côn.
Lúc ấy trong thành Sài Côn quân thám mã hớt hải chạy về phi báo cùng Nguyễn Phúc Dương. Dương cuống cuồng lo sợ gọi Lý Tài đến hỏi:
- Hai vạn quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy hiện đang đóng ở cửa biển Cần Giờ, sớm chiều sẽ tiến đánh Sài Côn. Tướng quân đã có kế sách đánh giặc hay chưa?
Lý Tài nói cứng:
- Thần đã có cách tiến thủ, xin Tân vương chớ lo!
Dương lại hỏi:
- Cách tiến thủ thế nào mau nói ta nghe thử?
Tài đáp:
- Thần đã cho người hoả tốc đến Trường Đồn gọi Lê Văn Quân, Trấn Biên gọi Hồ Văn Lân, Bình Thuận gọi Nguyễn Văn Hoằng mang quân về cứu viện. Hiện thần đã cho quân đặt đại bác trên mặt thành thì không dễ gì Nguyễn Huệ lấy thành được. Chờ ít lâu viện binh về đến, Nguyễn Huệ tất lui binh, lúc ấy ta đem quân đuổi đánh ắt là toàn thắng.
Phúc Dương hoàn hồn nói:
- Ấy thật là kế sách vẹn toàn, nhưng Nguyễn Huệ mưu mẹo vô cùng, dùng binh rất lạ. Nhớ năm xưa hắn chỉ dùng có năm ngàn quân mà đánh tan ba vạn quân của Tôn Thất Hương ở núi Bích Kê sông Lại Dương, Qui Nhơn phủ. Năm sau hắn đem năm ngàn quân lại đánh tan hai vạn quân của Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Nay Nguyễn Huệ vào Gia Định đem hùng binh tới hai vạn nên ta lấy làm lo lắng lắm.
Lý Tài trấn an Dương:
- Xin Tân vương bình tâm. Năm xưa Tôn Thất Hương bất tài, Tống Phước Hiệp khinh địch nên mới lầm mưu sâu mà bại dưới tay Nguyễn Huệ. Sao đem Lý Tài này so sánh với hai người ấy được. Nay đồn Thị Nghè là yết hầu của thành Sài Côn đã có tướng Nguyễn Nghi trấn đóng, thần xin đem toàn quân ra hợp với Nguyễn Nghi giữ Thị Nghè thì Tân vương ở trong thành Sài Côn như ngồi trên bàn thạch vậy.
Nói rồi liền dẫn quân đi. Lý Tài đi rồi, quân thám mã về báo với Dương: Thưa Tân vương, quân Tây Sơn đã đánh chiếm thành Trấn Biên, quan trấn thủ Hồ Văn Lân bỏ thành chạy trốn.
Nguyễn Phúc Dương hoảng hốt định sang dinh phủ Nguyễn Phúc Thuần, vừa lúc thấy Phúc Thuần và Nguyễn Đăng Trường đến. Dương không kịp mời ngồi hỏi ngay:
- Quân Tây Sơn chiếm lấy Trấn Biên, Thái Thượng vương đã biết chưa?
Nguyễn Đăng Trường đỡ lời nói:
- Thượng vương đã biết nên mới sang đây bàn bạc với Tân vương.
Dương hỏi:
- Vậy ta phải làm thế nào?
Trường đáp:
- Nay quân Tây Sơn đã lấy mất Trấn Biên thì Nguyễn Văn Hoằng không thể đem quân về cứu viện. Nguyễn Huệ lại từ cửa Cần Giờ đánh tới Thị Nghè, thành Sài Côn không thể nào giữ nổi. Hai Chúa hãy mau bỏ thành Sài Côn mà lui về Trường Đồn. Nếu Tây Sơn đánh tới Trường Đồn ta còn đường chạy về hà Tiên nương nhờ Mạc Thân Tứ, chứ ngồi ở thành Sài Côn này, ngộ nhỡ Nguyễn Huệ lại cho một cánh quân đánh lấy Trường Đồn, thì quân ta bốn bề thọ địch, khác nào cá nằm trong rọ vậy.
Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Đăng Trường liền đem gia quyến bỏ thành Sài Côn nhằm hướng Nam mà chạy.
Trong đêm ấy Nguyễn Huệ thừa lúc nước lớn cho chiến thuyền tiến sát đồn Thị Nghè đánh trống tưng bừng. Lý Tài và Nguyễn Nghi lệnh quân bắn đại bác xuống thuyền Tây Sơn, Nguyễn Huệ liền cho thuyền lui ra khỏi tầm súng. Một đêm mấy lần như thế, quân Lý Tài bằn hết đạn đại bác thì trời vừa hừng sáng. Bỗng quân từ thành Sài Côn chạy về phi báo: Quân Tây Sơn đã chiếm Trấn Biên. Hai chúa Tân vương và Thượng vương đã bỏ thành Sài Côn chạy về Trường Đồn.
Lý Tài thất sắc nói:
- Quân Tây Sơn sao chiếm được Trấn Biên nhanh thế. Tân vương chạy về Trường Đồn sao không bảo ta một tiếng!
Nói rồi truyền quân bỏ đồn Thị Nghè chạy theo hai chúa.
Lúc ấy sào huyệt quân Đông Sơn Đỗ Thành Nhân ở rừng Tam Phụ cạnh thành Trường Đồn. Đỗ Thành Nhân nghe quân vào báo:
- Thưa tướng quân, chúa Thái Thượng vương và Tân Chính vương bỏ thành Sài Côn vừa chạy ngang qua nơi này. Hiện Lý Tài cũng sắp sửa đến nơi.
Đỗ Thành Nhân mừng rỡ nói:
- Đây là dịp để ta báo thù năm trước, truyền lệnh xuất quân.
Lý Tài dẫn quân chạy đến rừng Tam Phụ bỗng nghe một phát pháo lệnh nổ vang, quân Đông Sơn từ hai bên rừng bắn tên ra như mưa. Quân Lý Tài dùng khiên mà đỡ. Đỗ Thành Nhân thấy quân Lý Tài chẳng chết bao nhiêu liền hô quân giáp chiến. Võ Nhân, Võ Tánh từ bên phải xông ra, Đỗ Thành Nhân, Đỗ Nhàn Trập từ bên trái đánh tới. Lý Tài cùng đường bèn quay lại bảo quân sĩ:
- Các ngươi hãy cùng ta quyết đánh một trận. Thắng quân Đông Sơn là chúng ta thoát nạn. Nếu quay lại gặp quân Tây Sơn thì chỉ còn con đường chết mà thôi.
Nói xong rồi vung đao xông tới. Hai bên giáp chiến, quân Lý Tài thất thế chống không nổi bị giết thây nằm chật đất. Lý Tài ngửa mặt than:
- Không ngờ Lý Tài ta cùng đường chết thảm nơi này!
Than xong đâm cổ tự vẫn. Đỗ Thành Nhân toàn thắng, tàn sát quân Lý Tài không còn một người nào cả. Nhân kiểm điểm binh mã thấy tổn thất cả ngàn quân, tức giận bảo quân lấy xác Lý Tài treo lên cây ven rừng, đoạn Nhân chỉ vào thây Lý Tài đang treo lủng lẳng trên cây mắng:
- Nếu không có mày đến đây thì giờ này ta đang làm phụ chính trong thành Sài Côn thống lãnh binh quyền phò tá chúa. Chính mày làm chúa tôi ta mỗi người đi một ngả, nghi kỵ lẫn nhau, làm rối loạn đất Gia Định này. Tội mày chết vẫn chưa trả được.
Nói xong liền chia nhau đi tìm chúa Nguyễn.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 24 (tt)



Lúc ấy hai chúa đem gia quyến chạy khỏi rừng Tam Phụ cách thành Trường Đồn hai mươi dặm. Bỗng thấy một đám tàn quân từ thành Trường Đồn chạy đến. Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương đón quân ấy lại hỏi:
- Các ngươi là lính của trấn nào?
Quân ấy đáp:
- Kính Chúa thượng, chúng thần là quân ở thành Trường Đồn, thành Trường Đồn bị quân Tây Sơn đánh chiếm, tướng quân Lê Văn Quân không rõ trốn tránh nơi nào. Chúng thần định chạy về Sài Côn báo cho chúa biết chẳng ngờ gặp chúa nơi bày.
Tân vương thất kinh hỏi Nguyễn Đăng Trường:
- Tây Sơn chiếm thành Trường Đồn là ta không còn đường chạy về Hà Tiên. Nay bốn bên địch vây phủ vậy phải làm sao?
Trường vẫn cần mẫn đáp:
- Ta chỉ còn một con đường là theo đường sông ra cửa bể Hàm Luông chạy ra ngoài hải đảo mà thôi!
Nói đoạn chúa tôi đưa gia quyến xuống thuyền xuôi dòng sông hòng ra cửa bể. Trong đoàn thuyền lánh nạn ấy có chiếc thuyền chở người cháu nội Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, con Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân bị Phúc Loan giết chết trong ngục ở Phú Xuân cùng Ý đức hầu Thái uý Trương Văn Hạnh năm xưa. Người này tên gọi Nguyễn Phúc Ánh cùng mẹ và em gái là tiểu thư Ngọc Du đang ở trong thuyền, bỗng thuyền bị gãy cột buồm nên đi chậm lại một đoạn khá xa. Phúc Ánh giật mình đứng trên mũi thuyền nói thầm rằng:
- Ta nghe nói tướng ra trận gãy cờ là điềm gở. Thuyền đang đi gãy buồm chắc là việc chẳng lành!
Vừa nói xong bỗng thấy phía trước đoàn thuyền chúa Nguyễn xuất hiện một đoàn thuyền chiến Tây Sơn từ trong ngả rẽ ào ào xông ra. Tướng Tây Sơn đứng trên mũi thuyền là Trần Quang Diệu quát:
- Hai chúa đừng chạy nữa, tôi chờ hai chúa ở cửa sông này đã lâu!
Nói xong Diệu liền hô quân vây bắt hai chúa Nguyễn. Tân vương ngoảnh lại thấy mình chỉ còn vỏn vẹn mười chiếc thuyền nhỏ và một trăm tên quân, biết không thoát được đành bó tay chịu trói. Thượng vương Nguyễn Phúc Thuần liền chạy ra sau lái thuyền gào to lên rằng:
- Phúc Ánh cháu ơi mau chạy đi!
Gào xong nhảy xuống sông tự vẫn. Nguyễn Đăng Trường hét lên một tiếng đâm đầu theo Phúc Thuần. Trần Quang Diệu sai quân lặc xuống nước vớt Thuần và Trường lên thuyền. Về phần Nguyễn Phúc Ánh ở nơi xa thấy hai chúa bị Tây Sơn bắt liền quay thuyền hối quân chèo gấp. Vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân lướt thuyền theo đuổi bắt. Chạy được một đoạn Phúc Ánh liệu bề ở dưới sông không chạy kịp liền bảo quân quay thuyền vào bờ dìu mẹ và em gái lên đất liền chạy trốn. Bùi Thị Xuân cũng tấp thuyền vào cùng mươi nữ hộ vệ đuổi theo Phúc Ánh. Vì vướng mẹ và em nhỏ chạy chẳng thoát, ngoảnh lại thấy quân đuổi theo toàn là nhi nữ, Ánh bèn quay lại vung gươm rượt đánh. Được vài hiệp, Thị Xuân chờ giáo Phúc Ánh đâm tới, liền đưa tay chụp lấy mũi giáo kẹp vào trong nách mình. Phúc Ánh dùng hết sức rút giáo về nhưng cánh tay Bùi Thị Xuân như sắt không sao rút được. Thị Xuân kề gươm vào cổ Ánh hô nữ binh trói lại. Lúc ấy mẹ Ánh và em gái Ánh là tiểu thư Ngọc Du cũng vừa bị giải đến. Mẹ Ánh quỳ lạy Thị Xuân và khóc rằng:
- Nay dòng họ Nguyễn của tiên vương chỉ còn một mình nó là trai. Xin bà hãy bắt mẹ con tôi về làm tội, hãy tha thứ cho Phúc Ánh để nó lo việc tế tự tổ tiên về sau.
Nói xong khóc lóc thảm thiết. Tiểu thư Ngọc Du lúc ấy vừa tròn mười bốn tuổi cũng quỳ cạnh mẹ mà lạy Thị Xuân. Thị Xuân ngoảnh mặt gạt đi:
- Không van xin gì cả! Quân bay giải về hết cho ta!
Lúc ấy Nguyễn Phúc Ánh mới quỳ lạy Thị Xuân ba lạy nói:
- Tôi tuy còn nhỏ nhưng là nam nhi, vì nước loạn mà chết chẳng ân hận gì. Bất đắc dĩ phải lạy nữ tướng quân ba lạy, xin nữ tướng hãy thả cho mẹ và em tôi được sống. Mẹ tôi đã già, em tôi là nữ nhi thường tình không thể làm hại cho xã tắc được, xin nữ tướng quân mở lượng hiếu sinh.
Thị Xuân quay lại bảo:
- Được! Ta tha cho mẹ và em ngươi. Quân bay giải Phúc Ánh đi!
Mẹ Ánh ôm chân phải Thị Xuân khóc rống lên rằng:
- Cả dòng họ chỉ còn mình nó là trai. Nó chết đi mẹ con tôi còn sống làm gì nữa.
Tiểu thư Ngọc Du ôm chân trái Thị Xuân khóc nức nở cầu xin:
- Bà cũng là phụ nữ, cũng làm mẹ cũng có con, ắt hiểu được tấm lòng của mẹ con tôi. Vậy xin bà hãy tha cho anh tôi được sống.
Hai mươi nữ binh của Thị Xuân trông thấy cảnh này đều rơi nước mắt. Thị Xuân động lòng nói với em mình là Bùi Thị Cúc:
- Nếu ta tha Phúc Ánh, ngộ nhỡ Chúa công bắt tội biết ăn nói làm sao?
Thị Cúc đáp:
- Việc này chỉ có chị em ta cùng hai mươi vệ quân thân tín, ta giấu đi sao Chúa công biết được. Chỉ e rằng Phúc Ánh là dòng hoàng tộc nếu sau này khởi binh báo thù thì nguy cho xã tắc mà thôi!
Thị Xuân cười bảo:
- Cả một cơ đồ còn phải sụp đổ thay, huống gì thằng con nít này trong tay chẳng một tên quân thì làm gì ta được.
Nói rồi liền ra lệnh tha cho ba mẹ con Phúc Ánh. Phúc Ánh cùng mẹ và em rối rít lạy tạ ơn, rồi vội vàng dìu nhau đi về làng dân gần đó. Ngọc Du hỏi Ánh:
- Anh ơi! Nay không cửa không nhà, không người thân thích biết phải về đâu?
Ánh vỗ về Ngọc Du:
- Trời đất này là của nhà Nguyễn ta, nay ta lại không có chỗ dung thân sao? Ta sẽ về với Đỗ Thành Nhân.
Nguyễn mẫu hỏi:
- Ngày trước Thành Nhân quản thúc Thượng vương và hoàng tộc trong thành Sài Côn. Nay theo về với hắn để làm tù nhân ư. Thà mẹ sống làm một người dân hạ tiện còn hơn về với Đỗ Thành Nhân!
Ánh trấn an mẹ và em rằng:
- Mẹ cứ an tâm! Lần trước quản thúc họ nhà ta trong thành Sài Côn hắn tưởng rằng con khờ dại nên mới bảo con lên mặt thành vờ không nhận Đông cung Thế tử Dương. Nhờ vậy con bắn tên đưa thư cho Thế tử Dương thông báo việc Thành Nhân làm phản. Đến nay Thành Nhân vẫn nghĩ rằng con tin hắn một dạ trung thành ắt vui vẻ mà đón tiếp mẹ con ta. Vả lại Thành Nhân dấy binh lấy tên Đông Sơn là có ý cho rằng binh hắn đối dịch với Tây Sơn. Nay có mẹ con ta hắn ắt mừng vì có nghĩa tôn phò, không hậu tiếp con sao được? Mẹ chớ lo!
Nói rồi liền dìu mẹ và em ngày đi đêm nghỉ bước thấp bước cao cực khổ trăm bề, tìm đến rừng Tam Phụ nương náu Đỗ Thành Nhân.
***
Nói về tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ vào thành Sài Côn rồi. Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân dẫn Thượng vương Phúc Thuần, Tân vương Phúc Dương, Tĩnh điệp hầu Nguyễn Đăng Trường về nộp dưới trướng. Nguyễn Huệ cười hỏi Phúc Dương:
- Đại huynh tôi sửa thành Đồ Bàn, tạm mời Đông cung Thế tử ra chùa Thập Tháp, chờ sửa xong thành sẽ rước Thế tử về xưng vương. Sao Thế tử lại chạy vào Gia Định để nhà Nguyễn ta có một lần hai chúa vậy?
Phúc Dương đáp:
- Ta thoát được về Gia Định mưu khôi phục cơ đồ. Nay việc không thành là do lòng trời vậy. Muốn chém giết mặc lòng, chớ hỏi lôi thôi.
Nguyễn Huệ truyền quân đem tạm giam Dương và Thuần, rồi tự tay mở trói cho Nguyễn Đăng Trường hỏi:
- Ngày trước chia tay ở Qui Nhơn, tiên sinh ra đi định xoay chuyển lại đất trời. Nay tiên sinh bị tôi bắt lần nữa, cỗ xe cầu hiền tôi vẫn dành cho tiên sinh đó. Chẳng hay ý tiên sinh thế nào?
Trường lạnh lùng đáp:
- Ngày nay chỉ có chết mà thôi!
Huệ cười bảo:
- Nếu thả tiên sinh lần nữa, chỉ e rằng lần sau quân lính của Huệ lại tốn thêm một sợi dây trói chứ lợi ích gì?
Nói rồi Huệ truyền quân lôi Thượng vương Phúc Thuần, Tân vương Phúc Dương và Nguyễn Đăng Trường ra chém. Chém xong Huệ lại sai quân tống táng theo nghi lễ vương hầu.
***
Nói về Nguyễn Lữ lấy xong thành Trấn Biên rồi, bèn sai Đặng Văn Long đem sáu ngàn binh mã tiến đánh Bình Thuận. Quân Tây Sơn trước đặt đại bác bắn vỡ thành rồi xung phong giáp chiến. Quân Nguyễn nghe súng nổ, trống đánh vang trời đã kinh hồn bạt vía bèn bỏ thành chạy trốn vào rừng. Nguyễn Văn Hoằng lúc ấy đã ngoài năm mươi tuổi, lên ngựa mặc giáp cùng vài trăm quân tín cẩn đến cửa thành cản địch, bị Đặng Xuân Phong chém một đao rơi đầu. Đặng Văn Long thừa thắng kéo quân ra thẳng thành Diên Khánh. Đồn trại quân Nguyễn dọc đường bị quân Tây Sơn tung hoả hổ mà đốt, khắp nơi lửa cháy ngút trời. Bại binh quân Nguyễn đổ xô chạy về thành Diên Khánh, tên nào tên nấy áo rách tả tơi, kẻ phồng mình, người gãy tay, sứt trán kêu khóc xin mở cửa thành. Quan trấn thủ Diên Khánh là Tống Phước Khuông kinh hãi đốc thúc quân canh phòng cẩn mật. Bỗng nghe trống trận Tây Sơn dồn dập từ xa, quân của Khuông run lên bần bật. Khương nổi giận vung gươm chém một tên quân vì sợ hãi mà rơi mất giáo. Khuông quát:
- Giặc tới phải liều chết mà đánh, nếu ai sợ ta giết chết không tha.
Vừa dứt lời quân Tây Sơn ở dưới thành đặt đại bác bắn vào. Súng nổ ầm ầm, đạn bay vèo vèo lên mặt thành, trúng vào đâu gạch đá vỡ tan. Quân Khuông hò nhau bỏ chạy. Khuông ngăn không được bèn hoà trong đám loạn quân bỏ thành mà trốn. Chiếm được thành Diên Khánh, Đặng Văn Long nói với Đặng Xuân Phong:
- Nay từ Qui Nhơn vào Gia Định chỉ còn quân Nguyễn đóng trên ải Vân Phong. Chiếm được ải này là từ Quảng Nam đến Sài Côn đã thuộc về Tây Sơn ta vậy!
Nói rồi truyền quân tiến đánh ải Vân Phong. Quân Tây Sơn đến chân đèo, thấy trên đèo tĩnh mịch như tờ, không một bóng người. Long liền cho vài tên quân lên dò thám, đến nơi mới hay tướng giữ Vân Phong là Tống Phước Lương và toàn quân đã bỏ trốn mà trốn tự bao giờ!
Quân Tây Sơn khắp nơi toàn thắng. Nguyễn Huệ liền để Lê Chu giữ thành Sài Côn, Nguyễn Uy giữ thành Trường Đồn, Phạm Ngạn giữ Trấn Biên, Đặng Xuân Phong giữ Bình Thuận, Diên Khánh rồi hợp binh các đạo tại cửa Cần Giờ định ngày rút về Qui Nhơn. Văn Long hỏi Huệ:
- Nay ta mới bình chứ chưa yên được đất Gia Định. Lê Chu, Nguyễn Uy, Phạm Ngạn đều là người hữu dũng vô mưu không biết phép trị dân, nay ở lại trấn Gia Định e lòng người không phục.
Huệ đáp:
- Ta cũng biết thế, nhưng lúc xuất binh ở Qui Nhơn đại huynh dặn dò ta khi chiếm được Gia Định phải để ba người này trấn thủ ba dinh, rồi rút đại binh về Qui Nhơn để phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc. ta để Lê Chu, Phạm Ngạn, Nguyễn Uy trấn thủ ba dinh là làm theo lệnh đại huynh mà thôi.
Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu nói:
- Nguyễn Uy, Lê Chu, Phạm Ngạn là do Chúa công lập trường đấu võ tuyển dụng ra. Chúa công đố tài tướng quân nên để ba người này trấn Gia Định để làm vây cánh ở cõi ngoài mà thôi.
Huệ ôn tồn bảo Văn Tuyết:
- Tuyết nói sai rồi! Chẳng qua đại huynh ta thấy các ông đều là hào kiệt nên muốn cùng ta về Qui Nhơn đề phòng quân Trịnh. Tuyết chớ nói càn mà mang tội khi quân.
Văn Tuyết quỳ tâu:
- Tướng quân là người trung hậu, tình nhà nghĩa nước vẹn đôi bề. Đối với Chúa công hết dạ trung thành, chúng tôi rất lấy làm kính phục. Bản thân Tuyết tôi chịu ơn cứu mạng của Chúa công, nguyện đem thân này ra đáp trả. Nhưng Tuyết tôi nghĩ sao thì nói vậy, Chúa công là người nhân hậu, vì thương người nghèo mà dấy nghĩa cứu dân, nhưng Chúa công tánh hay đố kỵ người tài trí hơn mình, e bất lợi cho đại sự, tướng quân nên tính trước. Tuyết tôi nói thế là vì quốc dân mà thôi. Xin tướng quân tha tội.
Nguyễn Huệ trợn mắt quát:
- Văn Tuyết to gan! Nếu không nghĩ ngươi là một công thần theo đại huynh ta từ lúc Tây Sơn dấy nghĩa, ta giết chết không tha.
Nói rồi đuổi Văn Tuyết ra ngoài, truyền quân xuất phát đem đại binh về Qui Nhơn.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 25

Đánh Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc lên ngôi.
Nương Thành Nhân, Phúc Ánh làm chúa.



Ngày kia thiết triều, Nguyễn Nhạc trang trọng nói:
- Nguyễn Huệ đem đại binh vào Nam Hà đánh một trận giết được hai chúa nhà Nguyễn, toàn bộ đất đai từ Quảng Nam vào Gia Định đều thuộc nhà Tây Sơn ta cả. Thành Đồ bàn vừa mới sửa xong, ý ta muèn lên ngôi Hoàng đế các khanh nghĩ thế nào?
Nguyễn Huệ vội bước ra can:
- Xin đại huynh chớ lên ngôi Hoàng đế!
Nguyễn Nhạc phật ý nói:
- Nay ta đã tiêu diệt xong nhà Nguyễn, thống nhất toàn cõi Đàng Trong, sao lại không lên ngôi Hoàng đế được?
Huệ quỳ xuống nói:
- Thưa đại huynh, dân nước Nam ta vẫn còn nhớ ơn vua Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc Minh, nên trong lòng trăm họ chỉ có họ Lê làm vua mà thôi. Đến như họ Trịnh nắm quyền ở Đàng Ngoài, quyền nghiêng thiên hạ còn không dám truất bỏ nhà Lê. Họ Nguyễn ở Đàng Trong tự chủ hơn một trăm năm cùng họ Trịnh bảy lần giao chiến, cũng chỉ dám xưng Vương mà thôi. Nay nhà Tây Sơn ta mới dấy binh, ân đức cùng bá tánh chưa rộng khắp, nếu đại huynh lên ngôi Thiên tử e lòng người nhớ ơn nhà Lê mà oán Tây Sơn ta, ấy là một lẽ. Đại huynh đang nhận sắc phong của họ Trịnh làm Quảng Nam trấn thủ, nếu đại huynh lên ngôi Hoàng đế, Trịnh Sâm ắt mượn tiếng vua Lê cử đại binh vào đánh ta, ấy là hai lẽ. Hiện thời dù ta đã tiêu diệt được họ Nguyễn nhưng thủ hạ của chúng không phải không còn. Như Đỗ Thành Nhân rút vào căn cứ ở rừng Tam Phụ, các tướng Nguyễn là Lê Văn Quân, Hồ Văn Lân, Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương vẫn đang lẩn trốn trong rừng thừa cơ nổi dậy. Nếu nghe đại huynh lên ngôi vua dù dòng họ Nguyễn không còn ai nhưng chúng sẽ mượn tiếng phò Lê như ngày trước ta mượn tiếng tôn phò Hoàng tôn Dương vậy, ấy là ba lẽ. Vì ba điều bất lợi ấy nên em dập đầu xin đại huynh chớ lên ngôi Hoàng đế.
Nguyễn Nhạc giận lắm nạt:
- Ngày trước ta có ý xưng Vương, ngươi ba lần bảy lượt can ngăn. Nay binh ta hùng, tướng ta mạnh, ta định lên ngôi Hoàng đế ngươi lại viện đủ lý do quyết lòng cản trở là ý làm sao?
Nguyễn Huệ sợ hãi dập đầu dưới trướng thưa:
- Xin đại huynh bớt giận, em chỉ vì đại cuộc mới nói lời ngay thật mà thôi! Chờ ít năm nữa ta yên được lòng dân Gia Định, cho không còn mầm mống phản loạn bên trong, rồi ta mượn tiếng phò Lê đem quân diệt Trịnh thống nhất sơn hà, xoá bỏ ranh giới Linh Giang, cho dân một nước không còn cảnh binh đao khói lửa, anh em dòng giống không còn chém giết lẫn nhau, thì ân đức của đại huynh sẽ ngàn sau lưu truyền cùng sử sách. Nếu bây giờ đại huynh lên ngôi Hoàng đế, e rằng trong nước sẽ sinh ra biến loạn, quân Tây Sơn ta phải thọ địch khắp nơi. Xin đại huynh xét lại!
Nguyễn Nhạc nổi giận quát lớn:
- Nguyễn Huệ to gan dám bảo ta lên ngôi thì trong nước sẽ sinh ra biến loạn sao? Quân bây đâu lôi ra ngoài cho đánh ba mươi trượng cho chừa thói xàm ngôn phạm thượng.
Quân vệ sĩ vốn sợ uy Nguyễn Huệ đang còn chần chừ, Nguyễn Lữ bước ra quỳ bên cạnh Nguyễn Huệ khóc rằng:
- Xin đại huynh bớt giận, anh Huệ chỉ vì quốc dân mà nói lỡ lời. Xin đại huynh hãy nghĩ đến công lao hãn mã của anh Huệ mà tha cho anh ấy một phen. Từ ngày thân phụ mất đi, đại huynh nuôi dạy hai anh em, công lao ấy tạc dạ ghi lòng. Nếu anh Huệ có lỗi xin đại huynh dùng đạo nhà mà trị, chứ nếu lấy phép nước mà đánh anh Huệ ba mươi trượng thì còn gì xương thịt mà phụ mẫu tạo ra!
Nghe Lữ nói xong, Huệ ôm em mà khóc. Các tướng trông thấy đều quỳ xuống xin tha cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Nhạc trông thấy hai anh em ôm nhau quỳ khóc dưới trướng động lòng ứa nước mắt nói:
- Nể lời các tướng ta tha cho lần này. Nhưng đạo nhà không thể không trị!
Dứt lời Nhạc truyền quân đem roi mây đến, bắt Huệ nằm giữa điện tự tay cầm roi đánh vào mông ba mươi roi. Đánh xong bước lên ngai, Nhạc bảo:
- Ý ta đã quyết, còn ai can ngăn. Chém!
Năm Mậu Tuất (1778) Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Thái Đức, đổi tên thành Qui Nhơn thành Hoàng Đế Thành, phong con là Nguyễn Bảo làm Thái tử, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Vũ Văn Nhậm, Trương Văn Đa làm Phò mã, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân đều phong làm đô đốc.
Việc lên ngôi của Nguyễn Nhạc vừa xong, các tướng Nguyễn Văn Tuyết, Văn Lộc, Văn Long rủ nhau đến tư dinh thăm Nguyễn Huệ. Huệ tươi cười mời vào nhà hỏi:
- Nay có việc chi mà các ông đến nhà Huệ đông thế?
Nguyễn Văn Lộc đáp:
- Hôm ấy Hoàng thượng giận đánh tướng quân ba mươi roi mây vào mông. Nghe nói tướng quân bị đau không ngồi được nên chúng tôi đến thăm tướng quân chớ không có việc gì cả!
Huệ cười nói:
- Hôm ấy Hoàng huynh tôi giận đòi đánh tôi ba mươi trượng. Nhưng Hoàng huynh rất thương yêu tôi đời nào lại đánh tôi như thế. Còn việc dùng roi mây giáo huấn, Nguyễn Huệ tôi từ nhỏ nhờ đại huynh răn dạy nay mới được nên người thì có chi là đau đớn. Các ông xem tôi vẫn ngồi được như thường đấy thôi!
Thấy Văn Tuyết nhìn quanh quất, Huệ hỏi:
- Văn Tuyết tìm ai thế?
Tuyết lại hỏi Huệ:
- Tiết chế Nguyễn Lữ đâu chẳng thấy?
Huệ đáp:
- Hoàng huynh cùng Lữ đệ thăm tôi vừa mới ra về.
Khi ấy Văn Tuyết mới nói:
- Hôm ấy nếu không nhờ Tiết chế đem tình cốt nhục ra can gián và anh em chúng tôi không đồng lòng xin hộ thì Hoàng thượng làm sao rút lời. Thế có phải là Long Nhương tướng quân bị ba mươi trượng xương tan thịt nát rồi không?
Huệ cười to đáp:
- Văn Tuyết nói sai rồi! Hoàng huynh ta thừa biết rằng ta bị tội các tướng tất phải xin cho. Hoàng huynh vì giận mà nói thế chứ nào cố làm tội ta.
Văn Long xen vào nói:
- Hoàng thượng là người nhân đức, thấy việc nghĩa dám quên mình, xem tướng sĩ như huynh đệ, phụ tử khiến người dưới quyền đều mến phục. Đến nỗi Hoàng thượng nới lên ngôi tôi đã nghe quân đồn trấn ải Cù Mông đặt câu ca rằng:
Ơn vua Thái Đức chí tình
Cù Mông vắng vẻ nhưng mình vẫn vui Xem thế đủ biết ân đức của Hoàng thượng đã rộng khắp phủ Qui Nhơn. Nhưng Hoàng thượng có hai tật nhỏ làm lu mờ đức lớn, thật đáng tiếc thay!
Văn Lộc hỏi:
- Hai tật nhỏ của Hoàng thượng là tật gì mà đến nỗi làm lu mờ đức lớn như thế?
Long đáp:
- Thứ nhứt là mộng làm vua khiến kẻ sĩ trong thiên hạ nghĩ rằng Hoàng thượng mưu định bá đồ vương mà giả nhân, giả nghĩa. Thứ hai là tánh đố tài không dám mạnh dạn cho Long Nhương tướng quân điều binh khiển tướng, làm chậm đi bước tiến của quân Tây Sơn ta trên con đường thống nhất giang san. Nếu Hoàng thượng cứ chuyên tâm trau dồi đức độ, giao binh quyền cho Long Nhương như ngày xưa Lư Bị giao quyền cho Gia Cát vũ hầu thì việc thống nhất giang san chỉ trong một sớm một chiều mà thôi.
Nghe Long nói xong Nguyễn Huệ nạt:
- Văn Long không được nhiều lời. Đại huynh ta giờ là vua một cõi Đàng Trong há để cho các ngươi đem ra bình phẩm hay sao? Nếu Hoàng huynh ta nghe được liệu cái đầu của ngươi có còn nằm yên trên cổ không?
Long sợ hãi vòng tay nói:
- Chẳng qua là đệ lấy làm tiếc cho sự nghiệp của nhà Tây Sơn ta mà thôi. Xin đại huynh bớt giận.
Nguyễn Huệ nét giận hầm hầm nói:
- Ngày trước Hoàng huynh ta tôn thầy làm sư phụ. Nhưng bây giờ dù thầy ta còn sống cũng không dám buông lời bình phẩm như ngươi vừa nói. Ta nể tình huynh đệ đồng sư môn mà tha cho ngươi một lần đó. Từ giờ trở đi nếu có kẻ nào còn đàm tiếu đại huynh thì đừng có trách ta là huynh đệ vô tình. Nói xong liền đuổi Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết đi về. Ba tướng sợ hãi bái tạ lui ra.
Trên đường về, Đặng Văn Long nói với Văn Tuyết và Lộc:
- Long Nhương tướng quân bị Hoàng thượng đố tài kiềm chế mà không oán, bị anh đánh oan giữa chỗ đông người mà không giận vẫn một lòng hiếu đễ, thật đáng phục thay!

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 25 (tt)



Nói về Nguyễn Phúc Ánh băng rừng lội suối về rừng Tam Phụ nương náu Đỗ Thành Nhân. Nghe tin Nguyễn Huệ rút đại binh về Qui Nhơn, Ánh bảo Đỗ Thành Nhân:
- Nguyễn Huệ tưởng rằng đã giết hết nhà Nguyễn ta, nên rút đại binh về Qui Nhơn đề phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc, hắn để Nguyễn Uy ở lại giữ Trường Đồn, Lê Chu giữ Sài Côn, Phạm Ngạn giữ Trấn Biên. Vậy tướng quân hãy sai người đi khắp các nơi liên lạc với các tướng hiện đang lẩn trốn, bảo họ đem quân về họp tại căn cứ Tam Phụ của ta rồi chỉnh đốn binh mã lấy lại đất Gia Định, đừng nên bỏ lỡ thời cơ.
Đỗ Thành Nhân suy tư nói:
- Ngày trước lúc tôi làm phụ chính ở thành Sài Côn vì sợ Lý Tài giả hàng làm nội ứng cho giặc, nên mới giữ không cho chúa Định vương ra thành đón Lý Tài. Vì việc ấy mà các tướng bảo tôi làm phản quản thúc Chúa thượng. Nay tôi triệu tập các tướng làm gì họ chịu đến đây?
Ánh cười bảo:
- Việc này tướng quân chớ lo. Tôi sẽ viết mật thư cho người đi gọi. Các tướng biết tôi còn sống ắt sẽ đến ngay.
Thành Nhân cả mừng nói:
- Vậy phiền Hoàng điệt viết thư nói rõ tấm lòng trung quân của tôi để các tướng dẹp bỏ thành kiến, cùng quyết tâm khôi phục cơ đồ là Hoàng điệt giải oan cho tôi rồi vậy.
Nguyễn Phúc Ánh liền viết mật thư trao cho quân đi triệu tập các tướng. Ít lâu sau Lê Văn Quân, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Nguyễn Nghi đem tàn quân về hội ở rừng Tam Phụ. Phúc Ánh ôm các tướng khóc rằng:
- Chú tôi là Thái Thượng vương, anh họ tôi là Tân Chính vương, cùng hoàng thân quốc thích và Tĩnh điệp hầu Nguyễn Đăng Trường đều bị quân Tây Sơn bắt giết hết cả rồi. Chỉ còn mình tôi tả xung hữu đột đưa mẹ và em vượt khỏi trùng vây chạy thoát mới viết mật thư triệu tập các tướng đến đây cùng nhau khôi phục cơ đồ mà tiên vương đã tốn bao công sức mới dựng nên.
Các tướng cùng khóc nói:
- Họ hàng vợ con chúng tôi đều bị quân Tây Sơn giết cả. Thù này không trả được còn sống trên đời làm gì nữa!
Đỗ Thành Nhân khuyên giải:
- Xin Hoàng điệt và các vị hãy bình tâm, dẹp bỏ ưu phiền để cùng nhau mưu bàn đại sự. Nay tuy hai chúa đã bị hại nhưng hoàng tộc hãy còn có Hoàng điệt Phúc Ánh. Vậy ta hãy tôn Hoàng điệt làm nhiếp chính quốc, Bình Tây đại Nguyên Soái cho an lòng tướng sĩ rồi sẽ khởi binh chiếm lại đất Gia Định tính kế lâu dài.
Ánh thoái thác:
- Tôi tuy là Hoàng điệt nhưng mới mười bảy tuổi, tài cán gì mà dám nhận chức ấy. Xin các vị hãy cử người khác cho.
Lê Văn Quân nói:
- Người xưa có câu: “Tài không đợi tuổi”, Hoàng điệt không có tài sao một mình có thể thoát khỏi trùng vây của giặc Tây Sơn được. Nếu Hoàng điệt không nhận chức ấy, thì sao gom được lòng dân về một mối mà chống giặc Tây Sơn?
Đỗ Thành Nhân thêm vào:
- Lời Lê tướng quân rất phải! Xin Hoàng điệt hãy thuận cho. Nếu ngại về việc điều binh khiển tướng đã có tôi đây bàn mưu định kế. Xin Hoàng điệt chớ lo!
Nói rồi liền ra hiệu cho các tướng quỳ xuống tung hô:
- Chúng tôi ra mắt Bình Tây đại Nguyên Soái!
Lúc ấy Ánh mới nói:
- Thôi các tướng đừng thi lễ nữa. Ta đâu dám phụ lòng các tướng. Vậy các vị hãy đứng lên cùng bàn việc khởi binh.
Nguyễn Ánh và các tướng cùng ngồi vào bàn.
Thành Nhân hỏi:
- Tuy Nguyễn Huệ đã rút đại binh về Qui Nhơn, nhưng quân Tây Sơn rất là thiện chiến. Muốn chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên, ta nên dùng mưu chớ nên dùng sức, các vị có kế gì chăng?
Bàn qua tính lại mãi vẫn chưa có kế gì đánh quân Tây Sơn, bỗng nghe ngoài bản doanh có tiếng quân cười nói xôn xao. Nhân gọi quân vào hỏi:
- Ngoài kia có việc chi mà ồn ào thế?
Tên quân đáp:
- Thưa tướng quân! Trong quân của ta có một tên lính dung mạo giống tướng quân như tạc. Lúc đầu mọi người cứ ngỡ là tướng quân. Sau vỡ lẽ lấy làm lạ bèn xúm nhau mà coi nên bàn tán xôn xao thế!
Thành Nhân nhíu mày hỏi:
- Ngươi bảo dung mạo giống ta như tạc ư?
Tên quân đáp:
Thưa phải!
Nhân truyền:
- Đem hắn vào đây cho ta!
Võ sĩ dẫn tên quân vào. Quả nhiên người này vóc dáng nhỏ hơn, nhưng dung mạo giống Thành Nhân như tạc.
Thành Nhân trợn mắt bảo:
- Trên đời sao có sự lạ thế! Truyền quân đem chém!
Tên quân hoảng sợ van xin:
- Xin tướng quân tha mạng! Tôi chẳng may trời sinh giống tướng quân. Chứ từ trước đến nay chưa phạm tội gì. Xin tướng quân thương tình tha mạng!
Thành Nhân đáp:
- Trùng tên vua chúa là phạm huý, phải đổi tên khác. Mặt giống vua chúa là phạm mạo, phải đổi mặt khác. Không chém đầu ngươi sao tra đầu khác vào được?
Nói xong mặc tên lính khóc lạy van xin, Thành Nhân hô quân lôi ra chém! Bỗng một người bước ra nói:
- Tôi có một kế chiếm lại đất Gia Định như trở bàn tay!
Phúc Ánh hỏi Nhân:
- Người này là ai thế?
Thành Nhân đáp:
Người này trí dũng song toàn, là thuộc tướng của tôi tên là Võ Tánh.
Ánh thấy Võ Tánh tướng mạo đường đường, mặt mày cương trực khôi ngô trong lòng rất thích hỏi:
- Kế thế nào tướng quân hãy nói xem?
Tánh đáp:
- Tiểu tướng xin đem hai trăm quân vào thành Trường Đồn trá hàng. Nguyên Soái và các tướng phục sẵn bên ngoài khi nào thấy lửa hiệu và cổng thành mở thì đem quân tràn vào mà đánh. Phải lưu ý chớ cho quân chạy thoát thành về Sài Côn báo với Lê Chu. Chiến xong Trường Đồn ta dùng y phục quân Tây Sơn về Sài Côn lừa Lê Chu mở cổng thành. Nếu dùng kế này có thể chiếm được Trường Đồn, Sài Côn dễ dàng.
Thành Nhân cười bảo:
- Ta e rằng ngươi vào Trường Đồn xin hàng, Nguyễn Uy sợ trá hàng mà giết ngươi trước thì sao?
Võ Tánh đáp:
- Ta làm khổ nhực kế, Nguyễn Uy tất sẽ tin mà cho tôi quy hàng.
Ánh hỏi:
- Khổ nhục kế thế nào?
Tánh quỳ lạy Đỗ Thành Nhân nói:
- Tướng quân tha tội tiểu tướng mới dám thưa!
Nhân bảo:
- Vì đại cuộc sao bảo là tội! Ngươi cứ nói thử xem?
Tánh đáp:
- Khổ nhục kế chính là cái đầu của tên quân vừa bị chém đó. Ta cứ làm như vầy... như vầy... Nguyễn Uy ắt phải lầm mưu.
Thành Nhân khen:
- Thật là diệu kế. Nhưng ngươi nên cẩn thận, quân Tây Sơn rất thiện chiến. Nhớ năm trước thằng vô lại Văn Tuyết và thằng chăn trâu Văn Lộc mắc kế điệu hổ ly sơn, bị ta vây ở ấp Hoà Hưng mà vẫn vũ dũng dùng hai ngàn quân đánh lui năm ngàn quân của ta. Võ Tánh chớ nên khinh địch, hãy theo kế ấy lập tức thi hành.
Võ Tánh lãnh lệnh đi ngay.
***
Ngày ấy trong thành Trường Đồn, tướng Tây Sơn Nguyễn Uy nghe quân vào báo:
- Thưa tướng quân có một viên tướng dẫn hai trăm quân xưng là thuộc tướng của Đỗ Thành Nhân đứng dưới thành xin hàng.
Nguyễn Uy bảo tả hữu:
- Lúc Long Nhương tướng quân rút đại binh về Qui Nhơn có căn dặn ta rằng: “Đất Gia Định dễ đánh mà khó giữ, nên dùng ân đức để thu phục lòng dân”. Nay có tướng địch ra hàng nên ta dung nạp để tỏ rõ lòng khoan dung của Tây Sơn ta vậy!
Trong quân hầu cận có người nói:
- Đành rằng như thế nhưng làm thế nào để phân biệt thật giả? Ngộ nhỡ giặc trá hàng vào thành làm nội ứng thì sao?
Uy bảo:
- Ta cứ lên mặt thành xem hư thực thế nào rồi sẽ liệu sau!
Nói rồi nai nịt lên mặt thành quan sát. Thấy viên tiểu tướng dẫn hai trăm quân đứng dưới thành, Uy hỏi lớn:
- Nếu ngươi muốn về với Tây Sơn ta, thì có chi làm bằng không phải là gian kế chăng?
Viên tiểu tướng đáp:
- Tôi tên là Võ Tánh, là thuộc tướng của Đỗ Thành Nhân. Vừa rồi tôi khuyên Đỗ Thành Nhân ra hàng, Thành Nhân không nghe lại toan giết tôi, tôi bèn chém chết Đỗ Thành Nhân rồi cắt thủ cấp đem đến xin hàng.
Đoạn Võ Tánh giơ thủ cấp lên nói:
- Đây là thủ cấp của Đỗ Thành Nhân xin tướng quân xem lại.
Nguyễn Uy cả mừng bảo tả hữu:
- Ngươi mau đi gọi mấy tên quân trước ở trong quân của Đỗ Thành Nhân đến đây cho ta!
Vài tên quân đến, Uy hỏi:
- Các ngươi hãy nhìn xem thủ cấp kia có phải của Đỗ Thành Nhân chăng?
Tên quân đáp:
- Người cầm thủ cấp chính là Võ Tánh thuộc tướng của Đỗ Thành Nhân. Còn thủ cấp kia do người chết không giống người sống, nên ở xa chúng tôi không dám quyết.
Nguyễn Uy liền xuống thành, dàn quân làm hai hàng, tự mình cưỡi ngựa cầm đao đứng giữa rồi cho mở cổng thành. Võ Tánh vào thành rồi quỳ mọp dưới ngựa Nguyễn Uy dâng thủ cấp. Nguyễn Uy hỏi quân:
- Chúng bay xem cho kỹ có phải là thủ cấp của Đỗ Thành Nhân chăng?

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 25 (tt)



Mấy tên quân nhìn tới nhìn lui một hồi rồi nói:
- Thưa tướng quân! Đây đúng là dung mạo của Đỗ Thành Nhân.
Nguyễn Uy lại hỏi:
- Không thể lầm lẫn chứ?
Quân đáp:
- Chúng tôi thường ở trong quân Đỗ Thành Nhân mấy năm trời không thể lầm lẫn được!
Lúc ấy Nguyễn Uy nhảy xuống ngựa đỡ Võ Tánh dậy nói:
- Ngươi chớ lo sợ, ta làm thế chẳng qua là sợ gian kế mà thôi. Nay biết ngươi thật bụng, ta lại chẳng thật lòng hậu đãi hay sao?
Võ Tánh lạy tạ ơn. Uy lại hỏi:
- Thường ngày ngươi có tài gì?
Tánh cung kính đáp:
- Tôi theo đòi võ nghệ cũng thạo nghề cung kiếm.
Uy đang vui vẻ liền bảo:
- Bình sanh ta rất thích võ nghệ. Vậy ngươi hãy biểu diễn vài đường cho ba quân biết vũ dũng của ngươi đi.
Tánh vâng lời liền cầm thương bỏ bộ mà múa. Đường thương linh hoạt lui tới nhịp nhàng trông rất là ngoạn mục. Ba quân thấy thế vỗ tay reo hò cổ vũ.
Uy hứng chí nhảy ra nói:
- Đánh võ một người sao hứng thú. Ta với ngươi thử sức cho vui.
Nói rồi cầm đao đánh với Võ Tánh. Kẻ đánh người đỡ, kẻ tiến người lui. Qua năm mươi hiệp bất phân thắng bại. Nguyễn Uy vờ núng thế bỏ bộ quay lưng tháo lui. Võ Tánh mừng rỡ nghĩ bụng: “Ta nhân dịp này giết chết Nguyễn Uy ắt là hàng được quân sĩ vậy”. Nghĩ xong nhảy theo đâm một thương trí mạng, chẳng ngờ Nguyễn Uy quay lại, một tay chụp lấy mũi thương, một tay vung đại đao chém hậu. Đao vừa đến cổ Võ Tánh, Nguyễn Uy liền dừng lại. Võ Tánh tháo mồ hôi hột phân trần rằng:
- Trong lúc đấu võ phải trổ hết tài nghệ. Nếu tướng quân không đánh thế võ này, thì đường thương của Tánh tôi vừa đến áo giáp của tướng quân liền dừng lại. Xin tướng quân chớ khá hiểu lầm.
Nguyễn Uy thu đao về cười lớn:
- Điều này ta há chẳng biết sao? Cũng như đường đao của ta vừa đến cổ ngươi liền dừng lại. Ngươi dùng thương pháp ắt phải có thế Hồi mã thương. Thế đà đao của người Qui Nhơn ta thường gọi là phản bối đao vậy!
Võ Tánh bái lạy:
- Tướng quân võ nghệ siêu quần, Tánh tôi rất lấy làm khâm phục.
Nguyễn Uy cả cười nắm tay Võ Tánh vào trong tướng phủ.
Đêm ấy nhân lúc Nguyễn Uy ngủ say, Võ Tánh lén chia quân mở bốn cửa thành, phóng hoả ở nhà chứa cỏ cho ngựa rồi chạy ra cửa Bắc thành đón quân mình.
Quân Nguyễn Phúc Ánh thấy lửa cháy trong thành Trường Đồn, lại thấy cửa thành mở toang liền ồ ạt xông vào thành. Nguyễn Uy đang ngủ nghe tiếng quân hò reo inh ỏi, giật mình thức dậy, lại thấy lửa cháy ngút trời. Uy thất kinh vội vàng mặc giáp cầm đao lên ngựa đem theo vài mươi tên quân tín cẩn nhắm cửa Bắc thành mà chạy. Gần đến cổng thành, Uy nghe Võ Tánh nói với quân Tây Sơn đang chiến đấu rằng:
- Quân ta đã chiếm được thành, các ngươi còn ngoan cố hay sao? Các ngươi đều là người Gia Định cả. Ơn chúa Nguyễn chưa đền sao theo giặc Tây Sơn? Còn không mau bỏ giáp quy hàng, ta hứa bảo toàn tính mạng cho các ngươi.
Nghe Võ Tánh nói quân Tây Sơn đều đầu hàng cả. Nguyễn Uy thấy vậy hơi giận ngút trời, chẳng nói chẳng rằng vung đao xông tới chém Tánh. Tánh đưa thương lên đỡ. Nguyễn Uy trong cơn giận sức mạnh vô cùng, Võ Tánh đánh không lại bị Uy chém một nhát trúng tay liền quay ngựa bỏ chạy.
Uy đuổi theo hét vang:
- Thằng súc sinh lừa đảo kia chạy đâu cho thoát!
Bỗng từ bên phải có tiếng rằng:
- Tướng giặc chớ hung hăng, có ta là Đỗ Thành Nhân đến đây.
Nguyễn Uy giật mình quay lại thấy một người cưỡi ngựa dung mạo giống hệt thủ cấp Võ Tánh dâng lúc ban ngày. Uy thất kinh nghĩ bụng, thằng này đã chết rồi sao lại còn đây. Võ Tánh nhân lúc Uy phân tâm liền quay lại đâm một thương vào giữa bụng Nguyễn Uy. Đâm xong Tánh bảo:
- Đây là thế Hồi mã thương của ta đấy!
Nguyễn Uy dùng hết hơi tàn gắng gượng nói:
- Nếu biết bụng ngươi quyết giết ta lúc thử võ, ta dùng phản bối đao chém chết cho rồi!
Nói xong nhào xuống ngựa mà chết. Quân Nguyễn chiếm được thành Trường Đồn, quân Tây Sơn thấy chủ tướng chết đều đầu hàng cả. Thấy Võ Tánh bị thương, Đỗ Thành Nhân để Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ Trường Đồn cùng Võ Tánh, còn mình đem đại quân cùng Nguyễn Phúc Ánh tiến ra Sài Côn. Trước khi đi, Võ Tánh nói riêng với Đỗ Thành Nhân rằng:
- Nguyên Soái là người khôn ngoan sắc sảo, không phải thật thà nhu nhược như chúa Định vương ngày trước. Dù binh quyền ở trong tay chủ tướng, cũng xin chủ tướng hãy thật lòng phò tá, chớ để cho Nguyên Soái nghi ngờ.
Nhân cười đáp:
- Tánh thật là lo xa quá đấy. Lúc quản thúc Định vương trong thành Sài Côn, ta đã biết Nguyên Soái là người như thế nào rồi. Vả lại đường đường nắm giữ binh quyền không phải là ta thì còn ai vào đây nữa, việc gì ta lại không thực bụng tôn phò. - Nói rồi không chút nghi ngại dẫn quân đi.
***
Một đêm kia quân Tây Sơn ở cổng Nam thành Sài Côn nghe tiếng gọi: Mau mau mở cổng thành!
Quân canh nhìn xuống thấy một đạo binh đều vận quân phục của Tây Sơn cả. Liền hỏi:
- Binh nào! Ở đâu đang đêm gọi cổng thành!
Quân dưới thành đáp:
- Ta là Nguyễn Uy giữ Trường Đồn đây! Quân Nguyễn đánh Trường Đồn dân trong thành theo giặc nổi dậy, ta phải bỏ thành chạy về đây. Các ngươi hãy gọi tướng Lê Chu mau mở cổng thành.
Lê Chu lên mặt thành trông thấy toàn quân mình liền bảo quân mở cổng. Đỗ Thành Nhân, Võ Nhân dẫn binh vào thành đánh giết quân Tây Sơn. Nguyễn Phúc Ánh, Hồ Văn Lân, Lê Văn Quân, Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương nấp ở cánh rừng ngoài thành liền hò quân xông lên tiếp ứng. Quân Nguyễn tiến vào thành như thác, tiếng hò reo vang dậy đất trời. Quân Tây Sơn bất ngờ trở tay không kịp bị giết rất nhiều. Tướng Tây Sơn là Lê Chu mắc lừa quân Nguyễn phải bỏ thành thoát thân chạy về Trấn Biên. Nguyễn Ánh vào thành Sài Côn đến nhà Thái miếu, thấy linh vị Tiên vương đều bị quân Tây Sơn đập phá, nhang tàn khói lạnh. Ánh thề rằng:
- Thù này không trả được thề chẳng làm người, cùng anh em thằng buôn trâu Nhạc – Huệ quyết chẳng đội trời chung.
Thế rồi sai người sửa sang thái miếu đặt lại linh vị thờ cúng tiên vương.
Lúc bấy giờ Lê Chu chạy về Trấn Biên nói với quan trấn thủ là Phạm Ngạn:
- Tôi với ông và tướng quân Nguyễn Uy, ba chúng ta đều do Hoàng thượng chọn trong trường thi võ mà cho vào trấn đất Gia Định. Nay Nguyễn Uy tử trận ở Trường Đồn, tôi lại để mất Sài Côn. Tội của tôi đã đành, nhưng ngộ nhỡ Hoàng thượng hỏi vì sao ông không đem binh cứu viện thì ông trả lời thế nào?
Phạm Ngạn hỏi lại Lê Chu:
- Giờ ta phải làm sao?
Chu đáp:
- Ông hãy ở lại giữ thành Trấn Biên. Hiện tôi còn được hai ngàn quân. Ông vui lòng cho tôi mượn thêm một ngàn quân mã và năm mươi khẩu đại bác. Tôi sẽ đem binh chiếm lại Sài Côn. Khi ấy Hoàng thượng có hỏi là hỏi tội tôi chứ ông không có tội gì cả!
Phạm Ngạn nghe xong lấy làm phải cho Lê Chu mượn quân, Lê Chu liền dẫn binh đi ngay. Nào ngờ có một tên quân dưới trướng Phạm Ngạn vốn người Gia Định nghe lén được cuộc nói chuyện giữa Lê Chu và Phạm Ngạn, mới lẻn trốn về Sài Côn báo cho Phúc Ánh hay. Ánh liền cho quân mai phục. Lê Chu dẫn quân đi được nửa đường đến một đoạn đường vắng bỗng nghe tiếng hò reo vang dậy, quân Nguyễn từ bốn mặt xông ra.
Lê Chu thất kinh than:
- Thôi ta đã lọt vào trận mai phục của giặc rồi!
Than rồi quay lại liều chết phá vây. Lê Chu tả xung hữu đột giết quân Nguyễn máu đỏ chiến bào, nhưng vòng vây dày quá, Lê Chu đánh một hồi thấm mệt mà chưa ra khỏi trận. Lê Chu liệu bề không thoát được, lấy gươm đâm cổ tự vẫn. Nguyễn Phúc Ánh thừa thắng sai Lê Văn Quân đem quân tiến đánh Trấn Biên. Tướng Tây Sơn giữ Trấn Biên là Phạm Ngạn thấy thanh thế quân Nguyễn lớn quá phải bỏ thành Trấn Biên chạy về Bình Thuận. Từ ấy đất Nam Hà, Gia Định lại thuộc về quân Nguyễn cả.
***
Ngày ấy Nguyễn Phúc Ánh ở trong thành Sài Côn họp các tướng bàn việc quốc gia.
Đỗ Thành Nhân quỳ tâu:
- Nay quân ta đã thu phục được đất Gia Định. Vậy Nguyên Soái hãy mau mau xưng Vương hiệu, kế tục nối nghiệp Tiên vương cho an lòng tướng sĩ. Rồi danh chánh ngôn thuận kéo quân ra trị tội Nguyễn Nhạc dám ngông cuồng lên ngôi Hoàng đế.
Nguyễn Phúc Ánh hỏi:
- Đối với các tướng ta có đáng được xưng Vương chăng?
Tống Phước Khuông nói:
- Nguyên Soái mới khởi binh mà đã khiến cho lòng người qui thuận. Đi đến đâu anh hùng hào kiệt đều xin theo dưới cờ, đánh một trận đã chiếm xong ba thành ở Gia Định. Tài thế ấy, đức thế ấy, chính nghĩa thế ấy sao không đáng để xưng Vương?
Rồi quay sang các tướng bảo:
- Chúng ta cùng tôn Nguyên Soái lên ngôi Vương.
Khuông nói xong mọi người đều quỳ cả. Riêng Thành Nhân vừa quỳ vừa nói:
- Nguyên Soái lên ngôi Vương là thuận lý. Vì chỉ có một mình Nguyên Soái là con cháu nhà chúa mà thôi.
Nguyễn Ánh lên ngôi Vương, phong Đỗ Thành Nhân làm Ngoại hữu – phụ chính – Thượng tướng công và thăng thưởng cho các tướng.
Từ ấy về sau nhân dân gọi nhà Nguyễn của vua Thái Đức là nhà Nguyễn Tây Sơn. Vì vua Thái Đức phát tích ở ấp Tây Sơn, phủ Qui Nhơn. Gọi nhà Nguyễn của Nguyễn Vương là nhà Nguyễn Gia Miêu. Vì họ nhà chúa Nguyễn phát tích ở ấp Gia Miêu, phủ Thanh Hoá. Và gọi giai đoạn lịch sử ấy là thời: Nhị Nguyễn tranh hùng! .

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 26

Võ Tánh náu thân rừng Tam Phụ.
Nguyễn Vương đại bại Thất Kỳ Giang.



Nguyễn Phúc Ánh được Đỗ Thành Nhân và các tướng tôn lên ngôi chúa xong. Hôm sau Nguyễn Nghi yết kiến nói riêng với Phúc Ánh:
- Lúc Lý Tài bỏ Tây Sơn theo chúa Định vương ở thành Sài Côn, nhưng Đỗ Thành Nhân ở trong thành quản thúc chúa Định Vương, khiến cho nội bất xuất ngoại bất nhập. Kế đến Đông cung Thế tử trốn khỏi Quy Nhơn đến đồn Thị Nghè. Chính thần và Đông cung đến xin vào thành Sài Côn. Lúc ấy có phải chính Thượng vương đã xa tiễn trao thư báo tin Thành Nhân làm phản?
Ánh đáp:
- Chính ta đã xạ tiễn trao thư cho Đông cung báo tin Đồ Thành Nhân làm phản.
Nguyễn Nghi hỏi tiếp;
- Vậy tại sao khi viết mật thư triệu tập các tướng về rừng Tam Phụ, Thượng vương lại bảo rằng Đỗ Thành Nhân vì sợ Lý Tài giả hàng làm nội ứng, nên Thành Nhân bất đắc dĩ không cho Định Vương ra ngoài thành mà đón Lý Tài. Vậy té ra lúc xạ tiễn trao thư bảo Thành Nhân làm phản là Thượng vương đã lầm lẫn chăng?
Ánh đáp:
- Lúc ấy Thành Nhân làm phản, quản thúc Định vương, ta xạ tiễn trao thư không hề lầm lẫn.
Nghi hỏi:
- Vậy bây giờ Thượng vương bảo Thành Nhân lũ ấy không có bụng làm phản, là bây giờ Thượng vương lầm lần chăng?
Ánh cười đáp:
- Ta không hề lầm lẫn!
Nghi lại hỏi:
- Cả hai điều trái ngược nhau mà không có điều nào lầm lẫn là Thượng vương có ý gì chăng?
Ánh nghe xong, khen Nghi rằng:
- Khanh thật là có mắt tinh đời. Lúc quân ta bị Nguyễn Huệ đánh tan tành, mọi người lẩn tranh mọi nơi, hai chúa đều bị bắt, chỉ có binh Đỗ Thành Nhân ở rừng Tam Phụ là chưa bị tổn thất gì cả. Ta muốn mượn thế lực Đỗ Thành Nhân khôi phục cơ đồ, nên mới viết mật tư triệu tập các tướng về hội quân như thế, Đỗ Thành Nhân yên tâm mà điều binh đuổi quân Tây Sơn khỏi đất Gia Định. Trong các đại thần theo chúa Định Vương từ Phú Xuân đến đây chỉ còn lại có mỗi mình khanh. Khanh thấy Thành Nhân là người thế nào?
Không chút do dự Nghi đáp:
- Thành Nhân tôn phò Thượng vương để thu phục nhân tâm mưu đồ bá vương.
Ánh nghiêm mặt hỏi:
- Dựa vào đâu mà khanh quả quyết thế?
Nghi tâu:
- Lúc tôn Thượng vương làm Nguyên soái, Thành Nhân nói rằng việc điều binh khiển tướng đã có hắn lo liệu. Ấy là tự cho mình tài hơn Thượng vương. Lúc giết tên quân dung mạo giống mình, Thành Nhân nói: "Mặt giống vua chúa là phạm mạo". Ấy là trong lòng đã có chí làm vua chúa. Rồi mời đây Thượng vương xưng vương, Thành Nhân lại nói: Chỉ có một mình Thượng vương là con cháu nhà chúa mà thôi. Ấy chẳng phải là Thành Nhân vì bất đắc dĩ mới ở dưới quyền của Thượng vương sao? Xét ba điều ấy nếu để Thành Nhân lấn quyền sớm muộn gì cũng sinh ra tai hoạ!
Ánh gật đầu nói:
- Lời khanh rất hợp ý ta. Nhưng hiện nay trong thành Sài Côn toàn là quân Đông Sơn cả, vả lại ở Trường Đồn còn có Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập trấn giữ. Nếu giết Thành Nhân e rằng quân Đông Sơn làm loạn thì sao?
Nghi hiến kế:
- Hiện trong thành Sài Côn còn có thần, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương mở người đều có hơn ngàn thủ hạ. Vả lại quân Đông Sa theo Thành Nhân vì Nhân tôn phò Thượng vương. Nếu kết tội Thành Nhân làm phản đem giết đi thì quân Đông Sơn ắt theo về cùng Thượng vương. Việc Sài Côn không đáng lo, chỉ lo Võ Tánh và Đỗ Nhàn Tráp ở Trường Đồn mà thôi!
Ánh nói:
- Sau khi giết Đỗ Thành Nhân rồi ta lập tức xuống chỉ sai người vào Hà Tiên bảo Mạc Thiên Tứ tiến quân ra, ta từ Sài Côn tiến vào vây Trường Đồn bắt Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập để tiệt trừ hậu hoạ. Khanh thấy thế nào?
Nghi mừng rỡ thưa:
- Kế ấy rất hay. Ta nên thi hành ngay, đừng chậm trễ.
Hôm sau Phúc Ánh cho mời Đỗ Thành Nhân đến nơi cung. Nhân không nghĩ ngơ gì cả, ung dung vào ra mắt Nguyễn Ánh. Ánh hỏi:
- Nay quân ta đã chiếm được ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Vậy việc đem quân ra tiêu diệt Tây Sơn Nguyễn Nước, thượng tướng công đã có kế sách gì chưa?
Nhân đáp:
- Thần có quên một đạo sĩ người Pháp Lang Sa tên là Bá Đa Lộc. Người này từ Tây Dương đến giảng truyền đạo Hoà Lan (kito giáo) ở nước Nam ta. Đạo sĩ Bá Đa Lộc có mượn cho thần mấy chiếc tàu đồng to và súng đại bác lớn, hẹn trong một tuần trăng nữa sẽ từ Pháp Lang Sa vượt biển vào Sài Côn giúp cho ta. Thần định cho họ đem tàu đồng súng lớn sang đã rồi sẽ định ngày đem quân Bắc tiến.
Ánh hỏi:
- Việc hệ trọng như thế sao thượng tướng còn không cho ta hay?
Nhân cười bảo:
- Thượng vương cứ ngồi trên ngai chúa gọi người hầu hạ. Mọi việc đã có hạ thần lo!
Ánh tức giận vỗ án, quát:
- Thành Nhân to gan. Người từ khi có công đã xem ta như con nít hay sao mà buông lời xúc phạm. Võ sĩ đâu trói lại cho ta.
Võ sĩ liền xông ra trói Thành Nhân lại. Thành Nhân lúc ấy mời hoảng sợ van xin:
- Hạ thần nói thế vì không muốn cho Thượng vương phải hao tâm khổ trí. Xin Thượng vương tha tội.
Ánh cười đáp:
- Tha cho ngươi lần này, lần sau ngươi có tha cho ta chăng? Ngươi tưởng rằng ta không biết bụng ở của ngươi sao? Đến như chúa Định Vương và hoàng thân quốc thích người con dám quăn thúc trong thành Sài Côn để khống chế quân các đạo. Tội của ngươi thật là đáng chết.
Thành Nhân ngạc nhiên nói:
- Ngày trước vì sa Lý Tài giả hàng làm nội ứng cho Tây Sơn, nên hạ thần bất đắc dĩ phải làm như thế. Khi ấy chính Thượng vương cũng đồng ý với hạ thần nên mới lên mặt thành bắn tên đuổi Đông cung Thế tử đi kia mà! Sao này bỗng dưng lại đổ lỗi cho hạ thần làm phản?
Ánh cười mỉa mai nói:
- Trò dối trá của ngươi tưởng rằng có thể lừa được ta sao? Đến nay ngươi vẫn nghĩ rằng ta tin là ngươi thật dạ trung thành ư? Ta nói cho người biết, hôm ở mũi tên ta bắn trúng nón của Đông cung Thế tử trong mũi tên ấy có phong thư của ta nói ngươi làm phản, nên Đông cung và Lý Tài mới hợp quân các trấn tiến đánh Sài Côn đuổi ngươi về rừng Tam Phụ. Giờ người đã rõ chưa?
Thành Nhân bây giờ mới nói:
- Trong thành Sài Côn còn có thủ hạ của thần là Võ Nhân và mấy ngàn binh mã. Ở Trường Đồn còn có Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập trấn thủ. Nếu Thượng vương giết th ần e rằng thành Sài Côn sẽ thành biển lửa.
Ánh đập bàn quát:
- Ngươi còn hăm doạ ta sao! Thật là lòng mưu phản tự miệng ngươi nói ra rồi đó. Ngươi bảo trong thành sẽ chìm trong biển lửa ư? Ngươi chớ lo, mọi việc ta lo liệu cả rồi - Ánh vừa dứt lờ, Hồ Văn Lân vào báo:
- Thần vừa vây nhà bắt được Võ Nhân. Xin đem về cho Thượng vương xét xử!
Phúc Ánh liền sai quân đem Đỗ Thành Nhân và Võ Nhân ra chém. Lúc đao phủ sắp khai đao hành quyết, Thành Nhân ngửa mặt than rằng:
- Đỗ Thành Nhân ta một thời ngang dọc. Bởi ta không nghe lời Võ Tánh nên phải thua trí mà chết dưới tay một thằng con nít.
Nói xong giương cổ chịu hình. Giết Đỗ Thành Nhân xong, Nguyễn Phúc Ánh liền sai người đi mời đạo sĩ Bá Đa Lộc đến yết kiến. Ánh nói:
- Nghe nói Giám mục định giúp cho tướng của ta tên là Đỗ Thành Nhân tàu đồng và súng đại bác, điều này có chăng?
Bá Đa Lộc đáp:
- Thưa có! Vài hôm nữa tàu chiến sẽ đến đây.
Ánh lại hỏi:
- Đỗ Thành Nhân đã chết rồi, Giám mục đã biết chưa?
Lộc giật mình đáp:
- Điều này tôi chưa được biết. Dám hỏi vì sao Đỗ tướng quân lại chết?
Ánh trầm ngâm nói:
- Lúc trước ta giao cho Thành Nhân tìm cách liên lạc với người nước Pháp Lang Sa của ngài mua cho được tàu đồng súng lớn đánh giặc Tây Sơn phục quốc cho nhà Nguyễn ta. Nào ngờ Thành Nhân lòng đầy tham vọng lợi dụng việc ấy mưu dùng vũ khí của các ngài làm quân đội riêng toan phản ta để đoạt quyền. Ta hay được mới giết đi. Nay cho mời ngài đến đã nói cho rõ việc ấy mà thôi!
Bá Đa Lộc thất sắc quỳ xuống lậy thưa:
- Việc Thành Nhân mưu phản tôi không được biết. Xin Thượng vương lượng cả xét soi.
Ánh đỡ Lộc dậy mời ngồi, an ủi:
- Việc ấy không can gì đến ngài. Chỉ mời ngài để nói rằng từ này về sau việc mua khí giới của nước Pháp Lang Sa ngài cứ trực tiếp bàn bạc với ta, để tránh sự hiểu lầm về sau. Chẳng hay ý ngài thế nào?
Bá Đa Lộc đáp:
- Nếu được vậy thật là diễm phúc cho tôi quá. Tôi là kẻ truyền đạo không màng đến vật chất, nên việc đem tàu đồng súng lớn sang đây là giúp cho Thượng vương đánh lũ giặc Tây Sơn để phục quốc thật lòng không nói đến việc mua bán. Chỉ xin Thượng vương cho những kẻ hành đạo nhà chúng tôi được truyền bá đạo lành của Đức Chúa trời để loài người biết thương yêu nhau mà thôi. Xin Thượng vương chấp thuận cho!
Ánh cả mừng nói:
- Việc này nào có khó gì. Ngài cứ giúp tàu chiến và vũ khí cho ta đánh giặc Tây Sơn, khi lãnh thổ của ta đến đâu, thì quyền truyền đạo của các ngài rộng ra đến đó. Ta lấy tư cách là vua trong một nước mà hứa với ngài!
Nói rồi Ánh liền trao cho Bá Đa Lộc một cái thẻ bài nói:
- Đây là hiệu lệnh của ta, có hiệu lệnh này ngài ở bất cứ đâu trên lãnh thổ của ta mà không ai có quyền ngăn cản. Nếu có kẻ nào gây khó dễ, ngài cứ đem hiệu lệnh này đến trình quan trấn thủ sẽ cho quân trị tội chúng ngay.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 26 (tt)



Trao thẻ bài cho Bá Đa Lộc xong, Ánh lại cho bày tiệc thết đãi, của ngon vật lạ cao lương mỹ vị chẳng thiếu món gì. Ánh lại sai người sửa sang công quán cho tươm tất mời Bá Đa Lộc đến nghỉ. Bá Đa Lộc vui mừng cảm tạ ra về. Bỗng các tướng Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương bước vào đồng thanh quỳ nói:
- Xin chức mừng Thượng vương!
Ánh ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao các khanh lại chúc mừng ta?
Nguyễn Nghi đáp:
- Cái hoạ trong tâm phúc là Đỗ Thành Nhân đã trừ được rồi. Thượng vương lại mượn được tàu đồng súng lớn của người Pháp Lang Sa thì cái cơ khôi phục cơ đồ xem như đã chắc mười phần rồi vậy. Bởi thế nên chúng thần mới đến đây chúc mừng Thương vương.
Ánh suy tư nói:
- Tuy đã diệt được Đỗ Thành Nhân nhưng có cháu Đỗ Thành Nhân là Đỗ Nhàn Trập, em Võ Nhân là Võ Tánh đang trấn thủ Trường Đồn. Chưa trừ được hai người này, ta lấy làm lo lắm.
Nghi tâu:
- Bởi biết Thượng vương lo việc ấy nên chúng thần mới đến đây cũng bàn việc này.
Ánh xuống lệnh:
- Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông đem năm ngàn quân mã tiến đánh Trường Đồn. Ta đã sai người ào Hà Tiên triệu Mạc Thiên Tứ đem quân hợp sức.
Hai đạo binh hai mặt giáp công ắt phải chiếm được thành, hai tướng nên hết lòng mau báo tiệp khải hoàn cho an lòng quả nhân.
Hồ Văn Lân và Tống Phước Khuông lãnh lệnh đi ngay.
***
Nói về Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập trong thành Trường Đồn ngày ấy nghe quân vào báo:
- Có người nhà của thượng tướng công xin vào ra mắt nhị vị tướng quân có điều cơ mật.
Võ Tánh bảo:
- Lập tức mời vào!
Người nhà Đỗ Thành Nhân vào, đến ôm chậm lấy Đỗ Nhàn Trập và Võ Tánh khóc rằng:
- Thượng tướng công Đỗ Thành Nhân và tướng quân Võ Nhân đã bị Thượng vương giết chết cả rồi!
Đỗ Nhàn Trập đau đớn quá hét lên hai tiếng "Chú ơi" rồi ngã lăn ra đất. Võ Tánh sửng sốt hỏi:
- Vì cớ gì Thượng vương lại giết chết thương tướng công và anh ta?
Người nhà đáp:
- Thượng vương bát tội thương tướng công lúc trước làm phản, quản thúc chúa Định Vương và hoàng tộc trong thành Sài Côn. Lại sai người đang đêm vào nhà bắt Võ Nhân rỗi đem chém hết cả đi. Tôi may mắn thoát được vội đến báo tin cho nhị vị tướng quân được rõ.
Đỗ Nhàn Trập vùng đứng dậy nghiến răng mắng:
- Thằng con nít Nguyễn Phúc Ánh kia, lúc trốn thoát khỏi tay quân Tây Sơn, đói cơm rách áo cù bất cù bơ. Nhờ có chú ta đem về phò tá, mang quân đi đánh chiếm lại đất Gia Định đưa nó lên ngôi chúa. Thằng khốn nạn ấy không nghĩ đến công ơn lại còn đem lòng đố kỵ mà giết chết chú ta. Thù này không trả được thề không phải là người.
Nói rồi Tráp quay sang hỏi Võ Tánh:
- Còn anh của ông là Võ Nhân cũng bị thằng giặc Ánh giết chết. Ông còn chờ có gì nữa mà không cùng tôi mang quân đánh Sài Côn bắt thằng Phúc Ánh trả thù cho hai người ấy?
Tánh gạt nước mắt đáp:
- Đứt tay thì đau ruột, anh tôi chết tôi không đau lòng sao được. Nhưng phàm làm việc gì nên suy tính phải trái thiệt hơn. Theo tôi nghĩ, Thượng vương giết chủ tướng và anh tôi tất sớm muộn gì cũng đem quân tiến đánh Trường Đồn bắt hai ta để tiệt trừ hậu hoạ. Tôi và ông ở đây chỉ có ba ngàn quân mã, không thể chống nổi với đại binh ở thành Sài Côn. Nếu để họ kéo binh đến đây chặn mất đường về căn cứ của ta ở rừng Tam Phụ, rồi Thượng vương lại sai Mạc Thiên Tứ đem quân từ Hà Tiên đánh ra thì ta không còn đường thoát thân. Vậy ta hãy mau mau bỏ thành Trường Đồn đem ba ngàn quân về cố thủ trong rừng Tam Phụ rồi sẽ liệu sau.
Nói rồi Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập liền dẫn ba ngàn quân Đông Sơn bỏ thành Trường Đồn lui về căn cử Tam Phụ. Tống Phước Khuông và Hồ Văn Lân đem quân đến thành Trường Đồn thì Mạc Thiên Tứ đã chiếm được thành rồi. Hai người bèn để Mạc Thiên Tứ trấn thủ Trường Đồn rồi kéo binh về Sài Côn báo cùng Nguyễn Phúc Ánh. Ánh con chưa quyết bỗng quân vào báo:
- Thưa Thượng vương, quân do thám của ta về báo rằng: Quân Tây Sơn đang chuẩn bị lực lượng tiến vào đánh Gia Định. Xin Thượng vương định liệu.
Ánh bảo các tướng:
- Hay tạm gác việc Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập lại. Ta nên luyện tập binh mã cũng cố lực lượng để chống nhau với quân Tây Sơn vậy.
Vừa dứt lời có quân vào báo:
- Thưa Thượng vương, có đạo sĩ Bá Đa Lộc xin và yết kiến.
Ánh mừng rỡ reo lên:
- Cứu tinh của ta đã đến rồi đây, mau mời vào.
Bá Đa Lộc vào đến Ánh mời ngồi, đón hỏi:
- Dám hỏi đạo sĩ có phải tàu đồng của ta đã đến tới đây rồi chăng?
Bá Đa Lộc đáp:
- Thưa Thượng vương, tôi vừa mượn được hai chiếc tàu đồng và hai trăm quân của nước Pháp Lang Sa do viên đô đốc tên là Mạn Hòe (Manuel), chỉ huy dẫn đầu tại sông Thị Nghè chờ có lệnh Thượng vương.
Ánh liền nói:
- Chúng ta hãy đến đấy xem tàu chiến như thế nào?
Nói rồi liền cùng các tướng theo Bá Đa Lộc đến sông Thị Nghè. Đến nơi thấy hai chiếc thuyền vừa cao, vừa rộng, vừa dài. Sức lớn của nó ước chừng gấp năm lần thuyền gỗ nước Nam. Toàn thân tàu được đúc bằng đồng sáng loáng. Mọi người lên tàu thấy sàn tàu cũng được bọc bằng đồng đều trầm trồ khen ngợi. Viên tướng chỉ huy hai chiếc tàu tên là Mạn Hòe ra mắt Ánh xong ngạo mạn nói:
- Tàu đồng của chúng tôi đạn bắn không thủng, lửa đốt không cháy. Giặc ở xa thì dùng súng lớn bắn một phát đắm vỡ một tàu. Giặc đến gần thì dùng súng nhỏ, đạn bay vừa xa vừa chính xác. Cung tên của các ngài đối với nước Pháp Lang Sa của chúng tôi đã trở thành vô dụng rồi. Xin Thượng vương cứ an tâm, hai chiếc thuyền của tôi là bất khả xâm phạm, quân Tây Sơn là lũ giặc nào mà dám đến đây.
Phúc Ánh cả mừng liền phong cho Mặn Hoè là chức tướng quân và ban thưởng rất hậu, lệnh cho Hòe đậu ở bến Thị Nghè chờ có lệnh. Ánh lại cho quân lập một đồn canh trên núi Cấp (Vũng Tàu ngày nay). Nhiệm vụ quân đồn này là ngày đêm thay phiên nhìn ra biển, hễ thấy thuyền chiến Tây Sơn đến lập tức đốt lửa báo cho quân ở Sài Côn biết để kịp thời ứng chiến. Xong việc Ánh vui vẻ bảo:
- Giờ ta có thể ăn ngon ngủ yên, chờ có giặc Nguyễn Huệ đến đánh một trận cho chúng biết lợi hại tàu đồng súng lớn của nước Pháp Lang Sa.
***
Trong lúc Phúc Ánh ở Gia Định đem ngày xây dựng quân đội chờ quân Tây Sơn, thì ngày ấy trong thành Hoàng Đế vua Thái Đức nhà Tây Sơn đang đánh cờ với một viên thái giám tên là Vũ Tâm Can, chợt nghe quân vào báo:
- Tâu Bệ hạ có Long Nhương tướng quân xin vào yết kiến.
Vua Thái Đức bảo:
- Hãy gọi em ta vào đây!
Nguyễn Huệ vào đến quỳ tâu:
- Thưa hoàng huynh, quân thám mã từ đất Gia Định về báo rằng, cháu Định vương Nguyễn Phúc Thuần là Nguyễn Phúc Ánh còn sống sót quy tập những tướng lãnh còn đang lẫn trốn nơi đây đánh chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Tướng của ta là Lê Chu và Nguyễn Uy tử trận, Phạm Ngạn phải bỏ thành Trấn Biên lui về cố thủ ở Bình Thuận. Phúc Ánh lại cầu viện người Pháp Lang Sa đem tàu đồng súng lớn đóng ở sông Thị Nghè xây dựng lại lực lượng hòng đánh lại quân ta để khôi phục cơ đồ. Hoàng huynh nên sớm lo liệu.
Vua Thái Đức nghe Huệ nói xong quăng cờ đứng dậy tức giận nói:
- Thằng con nít Phúc Ánh dám lộng hành giết chết hai tướng ta tuyển từ trong trường thí võ. Không bắt được Phúc Ánh trị tội thì còn gì oai võ vua trời.
Nói xong liền hạ lệnh thiết triều. Các tướng đến đông đủ, vua nói:
- Ta những tưởng đã tiêu diệt hết dòng họ Nguyễn Gia Định, ngờ đâu cháu Định Vương là Phúc Ánh lại còn sống sót dấy binh chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Nay ta định ngự giá thân chính đem đại binh vào Gia Định một phen. Các tướng chuẩn bị xuất chinh.
Nguyễn Huệ bước ra thưa:
- Tâu hoàng huynh, đánh Nguyễn Phúc Ánh thì cần gì đến hoàng huynh phải ngự giá thân chính cho nhọc nhằn lòng thế. Em xin đem mười ngàn quân thuỷ bộ vào Gia Định bắt Nguyễn Phúc Ánh đem về đây cho hoàng huynh trị tội. Việc đánh quân Nguyễn ở Nam Hà là việc dễ, nhưng việc giữ đất Gia Định vỗ an bá tánh để lòng dân không nghĩ đến chúa Nguyễn mới là khó.
Vua Thái Đức nghĩ ngợi hồi lâu nói:
- Được! Vậy Nguyễn Huệ hãy vì ta vào Gia Định lần nữa. Nhưng Phúc Ánh là người xảo quyệt cứu viện người nước Pháp Lang Sa về chống lại ta. Em chỉ đánh bằng thuỷ binh thì e rằng không bảo đảm toàn thắng. Vậy ta nên sai tướng đem một vạn quân bộ vào Bình Thuận tiến đánh Trấn Biên như thế mới nắm được phần thắng. Tướng nào có thể lãnh bộ binh Nam tiến.
Nguyễn Huệ nói:
- Em xin tiến cử hai người lãnh bộ binh Nam tiến.
Vua Thái Đức hỏi:
- Hai người ấy là ai?
Huệ đáp:
- Từ ngày Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo em vào đánh Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, thì Sở và Lân trấn thủ Phú Yên đến nay. Ngô Văn Sở tính tình điềm đạm làm việc cẩn thận, dụng binh quy củ. Phan Văn Lân vũ dũng phi thường bá quan đều mến đức sợ uy. Nếu dùng hai người này lãnh bộ binh Nam tiến thì không phải lo có điều gì sơ sảy.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 26 (tt)



Vua Thái Đức nghe lời liền sai người vào Phú Yên triệu hồi Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân. Huệ lại nói:
- Đất Gia Định vốn là nước của ngươi Chân Lạp được thiên nhiên ưu đãi, không bao giờ xảy ra lụt lội hạn hán, đất đai bằng phẳng màu mỡ phì nhiêu. Chúa nhà Nguyễn mới đem dân vào khai hoang lập ấp, các quan lại dẫn dân, binh vào nói đất khách xa xôi ngàn dặm, đều là người trung quân ái quốc tràn đầy nhiệt huyết cả. Vả lại trong thời gian lập ấp ở xứ người thường bị tộc Chân Lập đánh phá, bởi vậy nên tướng sĩ xem nhau như phụ tử, quân với dân như cá với nước, đoàn kết một lòng chống lại người Chân Lạp để được sanh tồn. Chính vì lẽ ấy nên đến nay người ở đất Gia Định được cơm nó áo ấm đều nhờ ở chúa nhà Nguyễn. Thế cho nên dòng họ Nguyễn còn, nhân dân Gia Định liền nổi dậy đi theo. Ấy chính là điều khó nhất của ta trong việc bình định đất Gia Định vậy. Vua hỏi:
- Theo em, thì nên phải làm thế nào?
Huệ đáp:
- Nay có một người trí dũng song toàn, kính người già như cha mẹ, thương trẻ nít như con. Múa kích thì có thể giết được hổ dữ, xuất ngôn nho nhã khiến kẻ sĩ phải tuân. Sau khi dẹp được giặc Phúc Ánh, nếu ở người này làm tổng trấn Gia Định, thì lo gì không yên được cõi Nam Hà.
Vừa hỏi:
- Người ấy là ai?
Huệ đáp:
- Người ấy chính là đô đốc Đặng Văn Long!
Vua Thái Đức vỗ trán nói:
- Đặng Văn Long là học trò của quân sư Trương Văn Hiến. Ngày trước quân sư còn sống vẫn thầm khen Văn Long như thế. Ta vì lo nhiều việc mà quên mất Văn Long.
Rồi vua xuống lệnh:
- Các tưởng hãy về kiểm điểm binh mã, chờ có Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân về đến sẽ xuất binh Năm phát.
Nói xong truyền bãi triều. Quan thái giám Vũ Tâm Can nói với vua Thái Đức rằng:
- Đành rằng là nên đánh giặc người, xin Bệ hạ cũng phải đề phòng các hoạ bên trong!
Vua Thái Đức trầm ngâm hỏi:
- Ngươi nói vậy là ý thế nào?
Tâm Can đáp:
- Hạ thần muốn nói về Long Nhương tướng quân đó. Xin Bệ hạ xét lại. Vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân là cháu vợ của Long Nhương. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lại chịu ơn nhà của Bùi Thị Xuân cùng Long Nhương uống máu ăn thề tính nhà thủ túc. Nay Long Nhương lại xin Bệ hạ cho hai người ấy vào Nam giữ binh quyền Nam phát là có ý gì? Vũ Văn Dũng, Đặng Văn Long đều là học trò quân sự Trương Văn Hiến, cũng với Long Nhương là huynh đệ đồng môn. Nay Long Nhương lại xin cho Văn Long trấn thủ đất Gia Định là có ý gì? Các người này lại chỉ biết có Long Nhương mà không biết có Bệ hạ, nếu để họ lớn quyền như thế chẳng đáng ngại làm ư?
Vua Thái Đức giật mình nói:
- Vậy ta phải ngự giá thân chính để hạn chế Huệ mới được. Và đạo quân bộ phải cho Vũ Văn Nhậm chỉ huy.
Năm Nhâm Dần (1782) niên hiệu Thái Đức thứ tư, vua Thái Đức và Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem hai vạn quân theo hai đường thuỷ bộ tiến vào Nam. Vua Thái Đức và Long Nhương cũng các tướng Đặng Văn Long, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Trương Văn Ba đi đường thuỷ vào cửa Cần Giờ. Khi đến ngoài khơi cửa Cần Giờ thấy trên hơn núi nhỏ trên đất liền khói lên nghi ngút, vua Thái Đức hỏi rằng:
- Trên hòn núi này bỗng khói lên nghi ngút là cớ làm sao?
Nguyễn Huệ đáp:
- Ấy là Nguyễn Phúc Ánh lập đồn canh trên ở nhìn ra biển, hễ thấy quân ta tiến vào, quân đồn trú đốt lửa làm hiệu để Phúc Ánh ở thành Sài Côn hay được kịp thời ứng phó mà thôi.
Vua hơi lo lắng hỏi:
- Vậy là Phúc Ánh đã có chuẩn bị, ta phải tiến quân như thế nào?
Huệ cương quyết đáp:
- Hoàng huynh cứ cho quân tiến binh vào cửa Cần Giờ rồi sẽ tuỳ cơ mà ứng biến.
Vua liền hạ lệnh:
- Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, kịp đem hai mươi đại thuyền và hai ngàn quân đi trước mở đường.
Nguyễn Văn Tuyết lãnh lệnh đi ngay. Khi ấy Nguyễn Phúc Ánh ở thành Sài Côn nghe quân hốt hoảng vào báo rằng:
- Thưa Thượng vương, quân ta trên núi Cấp ngoài cửa bể đốt lửa làm hiệu. Xin Thượng vương định liệu.
Phúc Ánh nạt rằng:
- Hễ giặc đến thì ta đã có kế sách mà đánh, việc gì ngươi sợ hãi thế. Nếu tự hậu còn như thế nữa ta giết chết không tha.
Tên quân hoảng sợ lui ra. Phúc Ánh liền đem toàn quân được hơn vạn người xuống thuyền theo sống Sài Côn ra cửa Cần Giờ cứ địch. Khi chiếc thuyền ra đến một đoạn sông rộng lớn ngả rẽ chằng chịt, Phúc Ánh hỏi tả hữu rằng:
- Sông này là sông gì?
Tả hữu đáp:
- Đoạn sông này có năm nhánh nối liền với các sông Tiền Giang ở Nam và sống Đồng Nai ở Bắc cộng với thượng lưu và hạ lưu của dòng sông chính tạo thành ngã bảy sông nên có tên gọi là Thất Kỳ Giang (này là sông Ngã Bảy).
Phúc Ánh liền cho đóng thuỷ trại ở Thất Kỳ Giang và hạ lệnh:
- Nguyễn Nghi đem hai ngàn quân và hai mươi đại chiến thuyền tiến ra cửa Cần Giờ, hễ gặp quân Tây Sơn đến thì đánh, chỉ được thua chứ không được thắng. Đợi cho giặc vào đến Thất Kỳ Giang rồi quay thuyền lại mà đánh.
Nguyễn Nghi hăm hở lãnh lệnh đi ngay. Phúc Ánh lại hạ lệnh:
- Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân, Mạn Hòe, mọi người lãnh một ngàn năm trăm quân mai phục ở bốn ngả sông. Ta cũng đạo sĩ Ba Đa Lộc lãnh ba ngàn quân mai phục hai ngã năm thượng lưu, chờ giặc đến cùng nhất tề đổ ra mà đánh. Trận này nhất định phải bắt cho được anh em Nhạc - Huệ.
Các tướng hăng hái lãnh lệnh và đồng thanh khen rằng:
- Thượng vương tuổi còn trẻ mà mới nhìn qua địa hình đã biết bày ra thế trận. Không biết bát trận ở của Gia Cát ngày xưa là có thật hay chăng. Con ngả này anh em Nhạc, Huệ lọt vào thất trận do của Thượng vương ắt là chết chẳng toàn thây!
Nói rồi cũng chia nhau bố trận. Lúc ấy Nguyễn Nghi dẫn hai ngàn quân và hai mươi đại thuyền đi tiên phong ra đến cửa Cần Giờ gặp đoàn thuyền tiên phong của Đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Văn Tuyết. Nguyễn Nghi trông thấy đại bác Tây Sơn đặt trên thuyền bề thế uy nghi nghĩ thầm rằng:
- Quân Tây Sơn thuyền to súng lớn nếu mà giáp chiến giả thua e rằng không thoát khỏi bọn này. Chi bằng ta từ xa bắn trước vài phát súng, chờ cho chúng bắn đại bác ra, rồi làm bộ hoảng sợ quay thuyền bỏ chạy, dụ chúng vào Thất Kỳ Giang rồi sống mái một trận cũng chẳng muộn gì!
Nghĩ rồi dàn thuyền truyền quân khai hoả mà bắn. Quân Nguyễn bắn được vài phát đại bác, tầm bắn chưa đến được thuyền Tây Sơn đã nghe đại bác Tây Sơn nổ ầm ầm, đạn bay trúng thuyền quân Nguyễn vỡ liền máy chiếc. Nguyễn Nghi thất kinh hồn vía, quay thuyền mà chạy. Nguyễn Văn Tuyết không đuổi theo lại lệnh quân neo thuyền chờ đại binh Tây Sơn. Đến nơi vua Thái Đức hỏi Nguyễn Văn Tuyết:
- Sao không tiến binh mã dừng quân nói cửa bể?
Tuyết đáp:
- Tâu Bệ hạ, thần vừa đến đây gặp một đoàn hai mươi đại thuyền của giặc Nguyễn Gia Miêu. Quân ta mới bắn vài phát đạn chúng đã bỏ chạy. Thần e có mai phục nên không dám đuổi theo mới đóng quân đây chờ thượng lệnh.
Nguyễn Huệ khen:
- Văn Tuyết cẩn thận như thế là đúng. Quân Nguyễn đốt lửa trên núi báo hiệu tất chúng đã có phòng bị. Đã phòng bị sao chưa đánh đã chạy, tất dụ ta vào trận mai phục.
Huệ giở bản đồ ra nói tiếp:
- Hoàng huynh hãy xem, nhất định là chúng mà phục ta ở sông Thất Kỳ Giang này.
Vua Thái Đức hỏi:
- Vậy theo em ta phải đánh thế nào?
Huệ chỉ vào bản đồ nói:
- Tại sông Thất Kỳ Giang nhất định Ánh cho giấu thuỷ quân trong các ngả sông chờ chiến thuyền ta lọt vào ổ phục kích rồi đổ ra mà đánh. Hoàng huynh cứ mạnh dạn tiến binh chia quân làm sáu cánh, mỗi cánh đánh vào một ngả sông nơi quân Nguyễn mai phục. Chúng chia quân mai phục thì ta chia quân mà đánh chỗ chúa tôi Phúc Ánh tan tác chẳng nhìn thấy nhau.
Vua Thái Đức trao bảo kiếm cho Nguyễn Huệ nói:
- Em đã một lần đánh vào Gia Định nên tỏ tường địa thế sông ngòi. Ta giao cho em được trọn quyền điều binh khiển tướng. Em mau hạ lệnh tiến binh.
Huệ chậm rãi nói:
- Xin Hoàng huynh chớ vội. Bây giờ thuỷ triều đang rút chạy, ta tiến quân mệt sức, chốc lát nữa nước cạn sẽ có thuyền quân Gia Miêu đến khiêu chiến. Khi ấy nước thuỷ triều lên ta theo sức nước mà đuổi theo giặc thì thuyền đi đã mau, mà quân lại khỏe.
Vua Thái Đức nghe lời đóng binh chờ quân Nguyễn.
***
Nói về Nguyễn Nghi đem quân ra khiêu chiến bị tướng Tây Sơn là Đô đốc Tuyết bắn vỡ vài chiếc đại thuyền liền quay đầu chạy một mạch về Thất Kỳ Giang. Không thấy quân Tây Sơn đuổi theo, Nghị đến đại bản doanh gặp Phúc Ánh, tâu:
- Thưa Thượng vương, quân Tây Sơn thuyền to súng lớn. Đạn thuyền của thần bắn chưa đến được thuyền giặc, thì đã bị đại bác Tây Sơn bắn vỡ mất hai đại thuyền. Thần vội chạy về đây, không rõ vì lý gì giặc chẳng đuổi theo!
Khi ấy Mạn Hòe vì nóng lòng lập công khoe tàu đồng súng lớn. Mạn Hòe theo Nguyễn Nghi vào gặp Phúc Ánh, thưa:
- Tôi xin đem hai chiếc tàu đồng ra cửa biển dụ giặc. Nếu chúng đuổi theo thì ta dụ vào Thất Kỳ Giang mà đánh. Nếu chúng sợ thì tôi sẽ bắn vỡ thuyền chúng ở cửa Cần Giờ cho khỏi nhọc sức Thượng vương.
Phúc Ánh y lời phong Mạn Hòe làm tiên phong, đem hai chiếc tàu đồng và hai mươi đại thuyền cùng hai ngàn quân ra cửa Cần Giờ khiêu chiến. Mạn Hòe hùng hổ kéo quân đi ngay. Đến gần thuỷ trại Tây Sơn, vua Thái Đức trong thấy bảo:
- Quá đúng như Nguyễn Huệ tiên đoán, ngoài cả quân Nguyễn lại ra khiêu chiến, lần này chúng có hai chiếc tàu đồng lớn, có phải của người Pháp Lang Sa chăng?
Nguyễn Huệ nói, giọng rền như sấm:
- Cái lũ người mắt xanh mũi lõ này, mượn tiếng truyền đạo có ý đồ dòm ngó nước ta. Trận này phải đốt hai chiếc tàu đồng này cho chúng biết quân Tây Sơn ta hùng mạnh thế nào!
Nói rồi sai Nguyễn Văn Tuyết làm tiên phong, phò mã Trương Văn Đa làm hậu quân Đô đốc, bảo vệ vua Thái Đức, còn mình đem toàn quân giáp chiến. Tiến vừa tầm đạn, quân Tây Sơn nhất tề khai hoả, đại bác nổ ầm ầm, đạn bay tới tấp trên thuyền quân Nguyễn. Mạn Hòe cầm đầu hai chiếc tàu đồng đi trước liền bắn trả. Nhưng quân Tây Sơn đông quả lại tập trung hoả lực vào hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe, chẳng mấy chốc súng đại bác trên tàu đồng của Mạn Hòe đều bị đạn quân Tây Sơn bắn hỏng cả. Mạn Hòe liền hạ lệnh lui binh. Quân Tây Sơn ồ ạt đuổi theo. Vừa đến Thất Kỳ Giang, Nguyễn Huệ ra lệnh:
- Đặng Văn Long đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ nhất. Nguyễn Văn Lộc đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ hai. Ngô Văn Sở đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ ba. Phan Văn Lân đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ tư, Trần Quang Diệu lãnh hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ năm.
Các tướng lãnh lệnh chia quân đi ngay. Nguyễn Huệ cùng Bùi Thị Xuân cầm trung quân đốc chiến thúc quân tiến lên vây hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe vào giữa. Quân Pháp Lang Sa trên tàu thấy Tây Sơn giáp chiến liền lấy súng nhỏ mà bắn. Quân Tây Sơn lấy khiên đồng đỡ đạn lầm lũi tiến lên. Đến gần tàu đồng Mạn Hòe, quân Tây Sơn tung hoả hổ mà đốt. Nguyên nhựa hoả hổ của Tây Sơn văng đâu dính đó, sức nóng vô cùng. Hoả hổ bắn tung tóe như mưa lên tàu Mạn Hòe, hai chiếc tàu đồng của quân Pháp Lang Sa bốc cháy. Mạn Hòe cùng hai trăm quân người Pháp Lang Sa đều bị chết cháy cả. Các cánh quân mai phục của Nguyễn Gia Miêu đều bị Tây Sơn đánh tan tác, chiến thuyền đắm vỡ gần hết, quân chết thôi vô số. Các tướng Nguyễn Phúc Ánh là Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân, Nguyễn Nghi đều theo lạch nhỏ mà chạy trốn. Lúc ấy Nguyễn Phúc Ánh thấy thuyền Tây Sơn lọt vào Thất Kỳ Giang trong bụng mừng lắm nói:
- Anh em Nhạc, Huệ quả nhiên trúng kế, chờ chúng vào hết trong trận sẽ nhất tề tiến đánh.
Nói vừa dứt câu lại thấy quân Tây Sơn chia thuyền làm sáu cánh, mỗi cánh tiến vào một ngả sông. Ánh giật mình nói với Bá Đa Lộc rằng:
- Sao quân Tây Sơn lại bố trận như thế. Không lẽ quân cơ của ta đã lộ rồi chăng?
Bá Đa Lộc lại thất sắc kêu Ánh:
- Quân Tây Sơn vây hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe. Xin Thượng vương mau hạ lệnh tiến quân giải vây cho Mạn Hòe.
Phúc Ánh liền hô quân xung trận. Thuyền quân Nguyễn vừa mới xông ra đã bị đạn đại bác Tây Sơn bắn chìm liền mấy chiếc. Quân Nguyễn thấy vậy hoảng sợ không dám tiến, Ánh ở phía sau tuốt gươm hét:
- Quân bay mau tiến lên liều chết mà đánh, đứa nào sợ lui ta chém chết không tha.
Ánh hết vừa dứt lời nhìn vào giữa trận thấy hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe bốc cháy, quân sĩ cả kinh đều quay thuyền chạy cả. Ánh ngăn không nổi đành cũng Bá Đa Lộc tất tả chạy theo .

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 27

Khuyên Đỗ Nhàn Trập, Võ Tánh một dạ trung quân.
Trốn Bùi Thị Xuân, Nguyễn Vương hai lần thoát hiểm.



Nhắc lại Nguyễn Phúc Ánh đánh cùng quân Tây Sơn ở Thất Kỳ Giang bị thua trận, bèn cùng Bá Đa Lộc quay thuyền mà chạy.
Nữ Đô đốc Tây Sơn Bùi Thị Xuân trông thấy nói với Nguyễn Huệ:
- Chiếc thuyền rồng kia chắc của Nguyễn Phúc Ánh, tôi xin đuổi bắt giết chết nó cho rồi.
Nói xong Xuân qua một chiếc dài thuyền dẫn đầu nữ binh đuổi theo Phúc Ánh. Phúc Ánh trông thấy hồn phi phách tán, nghĩ thầm rằng: Con tiện tỳ này võ nghệ siêu quần sức khỏe vô song. Nếu phen này mà nó bắt được ta thì dù cố vạn lậy mòn đầu gối nó cũng chẳng tha.
Nghĩ xong hối quân chèo gấp. Thị Xuân đuổi theo, Ánh liệu bề ở trên thuyền không chạy khỏi, bảo quân ghé thuyền vào bờ lên đất liền mà trốn. Bùi Thị Xuân cũng lên bờ đuổi theo. Bá Đa Lộc dẫn Ánh chạy vào trong một xóm đạo, đến nhà thờ lớn Lộc bảo máy đạo sĩ:
- Mau mau tìm chỗ cho vua nấp, kẻo giặc đuổi tới nơi.
Nói vừa xong người canh cổng vào bảo rằng;
- Có đạo binh toàn là con gái, gươm giáo lăm lăm đang lùng sục khắp nơi.
Đạo sĩ giữ nhà thờ nói:
- Xin vua và giám mục mau ra trốn nơi hậu quân.
Ánh và Lộc liền chạy ra hậu quân. Vừa vào trong đã nghe tiếng Bùi Thị Xuân quát ở ngoài rằng:
- Các ngươi hay lục soát khắp nơi bắt kỳ được Phúc Ánh cho ta.
Ánh chẳng còn hồn vía nào, nhận thấy mấy người đàn bà đang hộ sanh cho một phụ nữ đang trở dạ, liền cùng Bá Đa Lộc chui xuống gầm giường ấy mà trốn. Bùi Thị Xuân mở cửa bước vào thì vừa lúc đứa trẻ chào đời khóc oa oa. Thị Xuân thấy vậy liền vội vã lẩn ra ngoài. Bùi Thị Cúc hỏi:
- Vì sao chị vừa vào đã vội ra ngày?
Xuân đáp:
- Trong ấy có người phụ nữ vừa sanh con. Ta làm người đẻ sợ hãi lên máu sản hậu mà chết nên phải ra ngày.
Cúc lại hỏi:
- Thế ngộ nhỡ Phúc Ánh chui xuống gầm giường ấy mà trốn thì sao?
Xuân cau mày đáp:
- Nguyễn Phúc Ánh đến nỗi nào mà hèn như thế được! Vả lại nếu ta vào lục soát, người mẹ mới sanh con kia sẽ sợ hãi lên sản hậu mà chết. Lòng ta sao nỡ! Thôi! Mau đi tìm ở hướng khác.
Tìm đến tối vẫn không thấy tăm dạng Phúc Ánh đâu, Bùi Thị Xuân đành quay về báo cùng Nguyễn Huệ:
- Thưa tướng quân, Phúc Ánh chạy thoát chính la lỗi do tôi.
Huệ cười bảo:
- Việc gì mà cô Xuân phải tạ lỗi. Đất Gia Định sông ngòi chằng chịt, rừng rậm um tùm, hắn đã chạy trốn thì dễ gì mà kiếm cho ra. Vả lại số của Ánh chưa tàn mà thôi. Nay Phúc Ánh trốn thoát chạy vào thành Sài Côn, vợ chồng Diệu và Xuân hãy đem hai ngàn quân chia nhau chân ở hai cửa Cung Hậu và Hàm Luông do sông Tiền Giảng đổ ra. Đợi Vũ Văn Nhậm đem bộ binh tiến đánh Trấn Biên, Ánh tất bỏ Sài Côn mà chạy về Trường Đồn. Ta đã sai Nguyễn Văn Lộc tiến đánh Trường Đồn, Nguyễn Văn Tuyết đánh Long Hồ. Phúc Ánh chỉ còn một con đường là lợi dụng vùng sông ngòi chằng chịt theo sông Tiền Giang trốn ra hải đảo mà thôi. Lần này có thể vợ chồng Diệu Xuân lại lập công to như lần trước bắt hai chúa Thái Thượng vương và Tấn Chính vương của nhà Nguyễn vậy. Hai người nên cố gắng tiêu diệt được Phúc Ánh, xem như ta đã bình được đất Gia Định vậy.
Bùi Thị Xuân ân hận nói:
- Nguyễn Phúc Ánh thoát được là do lỗi ở Xuân này. Xin tướng quân trị tội.
Huệ cười hỏi:
- Ta chưa từng nghe nói có điều quân lệnh nào là bảo rằng không bắt được tướng giặc là có tội. Cô Xuân đừng nên bứt rứt như thế.
Bùi Thị Xuân không dám kể rằng chính mình đã tha mạng cho Phúc Ánh năm xưa lúc bắt hai chúa Nguyễn, bên cáo từ Nguyễn Huệ rồi cùng chồng là Trần Quang Diệu lãnh lệnh ra đi.
Nhắc lại Nguyễn Phúc Ánh thấy Bùi Thị Xuân dẫn nữ binh đi rồi, liền cùng Bá Đa Lộc chui ra khỏi gầm giường. Ánh bồng đứa bé mới sinh trên tay và nói:
- Ngươi chính là người trời sai xuống cứu vua. Và ta phong cho ngươi làm hộ giá đại tướng quân. Ngày sau phục quốc nhất định tìm mà ban thưởng.
Đoạn Phúc Ánh chia tay với Bá Đa Lộc rồi tìm đường về thành Sài Côn. Đến nơi thấy Lê Văn Quân cũng kéo quân về tới. Ánh giật mình hỏi Quân:
- Khanh đang thủ thành Trấn Biên sao lại kéo quân về đây?
Vâm Quân quỳ tạ lỗi:
- Giặc Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy từ Bình Thuận kéo vào đánh rất dũng mãnh. Binh ta không địch nổi, thần đành phải chạy về đây hợp quân cùng Thượng vương cố thủ đất Sài Côn.
Ánh bảo:
- Binh ta đã bị quân Tây Sơn đánh tan ở Thất Kỳ Giang. Mạn Hòe tử trận, các tướng Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân đều thất lạc cả. Nay nếu giặc ba bề đánh tới thì làm gì mà cố thủ Sài Côn. Bây giờ chỉ còn có một đường là bỏ thành mà chạy vào Trường Đồn với Mạc Thiên Tứ mới mong bảo toàn tính mạng.
Vừa dứt lời nghe quân hớt hải vào báo:
- Thưa Thượng vương, Vũ Văn Nhậm đem quân đánh đến cửa Bắc thành.
Phúc Ánh cả kinh liền sai Lê Văn Quân đem một ngàn quân đoạn hậu, còn mình đích thân dìu mẹ và em lên xe tứ mã mở cửa thành Nam mà chạy.
Nhắc lại từ khi Đỗ Thành Nhân bị Phúc Ánh giết chết, thuộc hạ của Đỗ Thành Nhân là Đỗ Nhàn Trập và Võ Tánh dẫn ba ngàn quân Đông Sơn bỏ Trường Đồn về tránh ở căn cứ là rừng Tam Phụ.
Ngày ấy quân thám mã về báo cùng Đỗ Nhàn Trập:
- Thưa tướng quân, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc đem quân thuỷ bộ vào đánh Gia Định. Thượng vương Phúc Ánh bị thua to ở Thất Kỳ Giang. Bộ quân Tây Sơn do phò mã Vũ Văn Nhậm đã đánh chiếm thành Trấn Biên. Hiện Thượng vương và tướng quân Lê Văn Quân đã lui về cố thủ Sài Côn.
Đỗ Nhàn Trập nghe xong liền quay sang Võ Tánh nói:
- Từ ngày anh ông là Võ Nhân và chú tôi bị Phúc Ánh bắt giết chết, tôi và ông phải về ẩn náu ở nơi này, lúc nào tôi cũng nuôi chí báo thù. Nay quân Tây Sơn sắp sửa đánh chiếm thành Sài Côn, Phúc Ánh không thể nào địch nổi sớm mượn gì thành Sài Côn cũng mất về tay quân Tây Sơn. Tôi với ông đều là bậc hào kiệt, vậy ta nên theo về với Tây Sơn đánh Phúc Ánh báo thù cho chúa. Chẳng hay ý ông thế nào?
Võ Tánh lắc đầu nói:
- Nếu ta đầu Tây Sơn đánh Thượng vương thì không phải là ta báo thù mà sẽ phụ lòng chủ tướng nói suối vàng vậy.
Nhàn Trập hỏi:
- Phúc Ánh giết chủ tướng. Nay ta đánh Phúc Ánh để báo thù sao lại bảo là phụ lòng chủ tướng.
Tánh không đáp, hỏi lại Nhàn Trập:
- Xin hỏi ông vì sao chủ tướng ứng nghĩa cần vương giúp chúa Định Vương lại lấy tên quân ta là Đồng Sơn.
Trập đáp:
- Chú tôi lúc ấy lấy tên Đông Sơn là tỏ ý đối nghịch với Tây Sơn.
Tánh hỏi:
- Vậy nay ta đầu hàng Tây Sơn thì chẳng phải là phụ lòng chủ tướng sao?
Trập đáp:
- Ngươi xưa có nói: Chim khôn chọn cây mà đỗ, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nay Phúc Ánh tâm địa nhỏ nhen, mượn tay người rồi lại giết người, mới đặng chim đã vội vàng bẻ ná. Vả lại Phúc Ánh muốn tranh lấy ngôi vàng nhà chúa mà không màng đến điều hại của quốc dân, nên mới mượn binh của nước Pháp Lang Sa, đổi lại cho Bá Đa Lộc được tuyên truyền tà đạo, người như thế đâu phải là minh quân. Vả chăng Phúc Ánh vốn có lòng muốn giết hai ta ở tiệt trừ hậu hoạ nên mới sai Mạc Thiên Tứ từ Hà Tiên đánh ra, Lê Văn Quân và Hồ Văn Lần từ Sài Côn đánh vào lúc hai ta còn trấn thủ ở Trường Đồn. Nay nếu ông ra phò Phúc Ánh có dám chắc rằng bảo toàn tính mạng được chăng? Tôi có nghe vua Thái Đức Tây Sơn là người nhân nghĩa, ban quân pháp không được giết hàng quân, đi đến đâu đều cứu giúp dân nghèo. Đến như năm xưa chúa Định Vương bỏ Quảng Nam vượt bể vào Gia Định, vua Tây Sơn bắt được Tính Điệp hầu Nguyễn Đăng Trường, cảm mến lòng trung hiếu của Tính Điệp hầu, vua Tây Sơn lại cấp ghe thuyền cho Tính Điệp hầu vào Gia Định theo chưa. Người như thế không phải là đại nhân dài đức hay sao? Này nếu ta cứ câu nệ hai chữ trung quân không đầu quân Tây Sơn, thì đối với Phúc Ánh cũng mang tiếng là phản chúa. Chẳng lẽ ông lại để cho mấy ngàn quân Đông Sơn ở mãi trong rừng Tam Phụ này sao?
Võ Tánh bác lời của Đỗ Nhàn Trập:
- Thượng vương giết chủ tướng là do chủ tướng cậy công mà xem thường tiểu chúa, làm anh tôi phải bị chết oan, thì sao lại đổ lỗi cho Thượng vương được. Ấy là một lẽ! Thượng vương mượn binh Pháp Lang Sa mong khôi phục cơ đồ ấy là điều đúng. Đạo do Bá Đa Lộc tuyên truyền cũng dậy người làm điều thiện thì sao lại bảo lả tà đạo? Ấy là hai lẽ. Thượng vương muốn giết chết hai ta để trừ hậu hoạ vì hai ta là thuộc hạ của chủ tướng, ở trong cương vị này ai cũng phải làm như thế mà thôi. Phận làm tôi không được đem lòng oán chúa. Ấy là ba lẽ! Vả lại tôi không ở trong thành Trường Đồn để Thượng vương bắt làm tội cho trọn câu: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" mà về ẩn thân nơi rừng Tam Phụ vì nghĩ rằng thân này còn có ngày giúp chúa đánh Tây Sơn. Tôi cũng như Tính Điệp hầu Nguyễn Đăng Trường chỉ biết câu: "Tôi trung không thờ hai chúa" mà thôi. Lẽ đâu lại đi hàng thằng buôn trâu Nguyễn Nhạc, vả lại quân Tây Sơn mượn tiếng tôn phò giả nhân giả nghĩa nên mới thả cho Tính Điệp hầu để lấy lòng hiền sĩ. Nếu không thế, tại sao lúc bắt Tính Điệp hầu lần thứ hai lại không cảm lòng trung hiếu tha cho mà bắt giết đi. Xin ông chớ có lầm anh em thằng buôn trâu là người nhân nghĩa.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 27 (tt)



Đỗ Nhàn Trập nghĩ thầm rằng: Võ Tánh đã quyết như thế ta có nói thế nào cũng không lay chuyển được, chi bằng ta làm hoà rồi thừa cơ trốn đi là hơn. Nghĩ xong làm như giật mình tỉnh ngộ, Tráp nói:
- Nếu không nhờ ông phân giải, tôi đã làm quân Tây Sơn. Nhưng Thượng vương cứ muốn giết hai ta thì làm sao mà ra giúp chúa cho được?
Tánh bàn rằng:
- Hiện giờ ta chưa thể chứng minh lòng trung của ta được. Nay tôi và ông hay kéo quân đến thành Sài Côn giúp chúa chống Tây Sơn. Lẽ nào chúa chẳng tin ta?
Trập vội can:
- Nếu làm như thế tôi e rằng quân ta chưa đến nơi thì Thượng vương đã bỏ thành mà trốn.
Tánh ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao ông lại nói thế?
Trập vờ lo lắng nói:
- Nay Sài thành mặt Bắc thì bộ binh Vũ Văn Nhậm đang uy hiếp, mặt Đông thì thuỷ binh Nhạc, Huệ tấn công. Nếu quân do thám về báo với chúa rằng có Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập đem quân Đông Sơn tiến đánh mặt Nam thì Chúa thượng lại ngồi yên trong thành được sao? Ông làm thế thành ra hại chúa vậy!
Tánh gật đầu hỏi:
- Theo ông nay tôi phải làm sao?
Trập hiến kế:
- Nay chỉ còn có cách là chờ có chúa thất thủ Sài Côn ắt phải chạy vào Trường Đồn cùng Mạc Thiên Tứ, vào Trường Đồn tất phải chạy ngang qua rừng Tam Phụ của ta. Khi ấy ta kéo quân ra đánh Tây Sơn đang đuổi theo để cứu chúa. Chỉ có như vậy mới chứng tỏ được lòng trung của mình cho chúa biết mà thôi.
Tánh thở dài nói:
- Biết chúa lâm nguy mà không ra giúp được, phải chờ cho chúa bại binh. Nhưng không còn cách nào khác đành phải vậy thôi!
Trập bảo:
- Tôi xin đem một ngàn quân bản bộ làm tiên phong ra ngoài rừng đến ven đường mai phục. Ông chỉnh đốn hàng ngũ vạn chuyển binh lương cũng toán binh đến sau.
Nói rồi Trập từ biệt Võ Tánh đi ngay.
Nói về Nguyễn Phúc Ánh bỏ thành Sài Côn mà chạy đến gần khu rừng Tam Phụ, xảy thấy vài tên quân mình từ hướng Nam chạy đến bảo:
- Thưa Thượng vương, tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc đem quân theo đường bé vào cửa Hàm Luông chiếm lấy Trường Đồn. Nguyễn Văn Tuyết theo sông Tiền Giang đánh chiếm Long Hồ. Tổng trấn Mạc Thiên Tứ đã bỏ Trường Đồn chạy về cố thủ Hà Tiên.
Phúc Ánh thất kinh than:
- Nay hai đầu địch quân đánh tới biết phải chạy về đâu?
Vừa than dứt lời bỗng thấy một đạo binh trong rừng xông ra. Viên tướng cầm đầu đạo binh ấy hết lớn:
- Nguyễn Phúc Ánh chạy đâu cho thoát. Hôm nay ta quyết giết ngươi để trả thù cho chúa ta là Đỗ Thành Nhân.
Nguyễn Phúc Ánh tâm thần bấn loạn nói:
- Quân Đông Sơn lại kéo đến đánh, Lê Văn Quân mau chặn Đỗ Nhàn Trập lại cho ta.
Quân vội vàng nói:
- Chúa thượng mau phò quốc mẫu chạy vào con đường nhỏ ở hướng Đông lánh nạn. Thân xin ở lại liều mình chết cùng Đỗ Nhàn Trập.
Văn Quân nói xong hô quân cự chiến với Đỗ Nhàn Trập. Binh Nguyễn bị Tây Sơn đuổi chạy tướng sĩ người ngựa mệt mỏi đều quẳng giao bỏ trốn. Lê Văn Quân cũng vài mươi tuỳ tùng quất ngựa chạy theo Phúc Ánh. Đỗ Nhàn Trập quyết chí báo thù thúc ngựa đuổi theo. Văn Quân chạy một hồi thấy xa giá quốc mẫu và Phúc Ánh phía trước mà sau lưng Đỗ Nhàn Trập vẫn rượt nã theo. Trong cơn nguy khốn bỗng nghe một tiếng hét vang:
- Quân giặc kia không được hại chúa!
Người vừa hét mặt đen như than, thân hình cao lớn tay cấm đại đao từ đâu xông đến chặn Nhàn Trập mà chém. Nhàn Trập giơ thương lên đỡ nghe rủn cả tay, hoảng kinh quát ngựa mà chạy. Nhờ vậy nên Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Quân mới thoát nạn. Phần Đỗ Nhàn Trập thì dẫn quân về thành Sài Côn đầu hàng quân Tây Sơn.
Nói về viên tướng mặt đen sau khi đuổi Đỗ Nhàn Trập đi rồi bèn quay ngựa lại ra mắt Phúc Ánh. Ánh hỏi:
- Tráng sĩ tên họ là gì, quê quân ở đâu? Sao biết ta lâm nạn nơi này mà cứu?
Tướng ấy đáp:
- Thần dân tên Trương Tấn Bửu, quân làng Hiệp Hưng, Tổng Tân An, Châu Định Viễn ở gần đây. Nay quân Tây Sơn bủa vây bọn phía, xin mời chúa hãy lẩn về nhà thần dân nghỉ tạm qua đêm rồi sẽ liệu sau!
Phúc Ánh và Lê Văn Quân liền đưa quốc mẫu về nhà Trương Tấn Bửu. Mẹ con Phúc Ánh và Lê Văn Quân mỏi mệt quá đánh nằm trên giương rơm, dưới ánh đèn dầu leo lét, trong túp lều tranh lụp xụp ngủ vùi. Sáng sớm hôm sau nghe Trương Tấn Bửu gọi:
- Đỗ Nhàn Trập về hàng quân Tây Sơn, hiện đang dẫn giặc đi lùng sục khắp nơi. Xin Chúa thượng mau đi tránh.
Phúc Ánh mệt mỏi lo lắng hỏi:
- Nay quân ta tan tác chỉ còn có vài người tuỳ tùng. Giặc đuổi đến biết tránh đi đâu?
Bửu trấn an rằng:
- Xin Chúa thượng chớ lo. Thân dân ở vùng này rất rành địa thế, xin đưa chúa qua ở cồn vắng bên kia sông thì không lo giặc tìm ra tông tích.
Nói xong Bửu dùng thuyền nhỏ đưa mẹ con Phúc Ánh qua cù lao giữa sông mà tránh. Đến nơi quốc mẫu lại kêu đói. Ánh bảo Tấn Bửu:
- Phiền ngươi đi tìm thức vật cho mẹ con ta lót dạ.
Tấn Bửu đi một hồi quay lại nói:
- Thần dân định về nhà lấy cơm dâng quốc mẫu và Chúa thượng, nhưng ngắt nỗi quân Tây Sơn đang lùng sục trong làng nên không tiện quay về. Xin chúa cùng quốc mẫu dùng tạm quả này cho đỡ đói.
Nói xong Bửu dâng quả rừng cho Phúc Ánh. Ánh cắn thử một miếng thấy vị vừa chưa vừa chát liền hỏi Trương Tấn Bửu:
- Quả này tên gọi quá gì?
Bửu thưa:
- Cây này thường mọc bên bờ sông, tên gọi cây bần.
Ánh tò mò hỏi:
- Vì sao gọi là cây bần?
Bửu đáp:
- Vì quả này thương những người nghèo khó thiếu cơm mới ăn qua bữa, nên có tên lá cây bần.
Ánh bèn bảo:
- Họ nhà ta làm chúa cả thiên hạ, nay phải ăn trái bần lót dạ. Từ nay cấm không gọi là trái bần nữa.
Bửu hỏi ngày:
- Thưa chúa vậy phải gọi là trái gì?
Ánh ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Từ nay phải gọi là cây Thuỷ Liễu!
Ánh nói xong liền dâng trái Thuỷ Liễu cho mẹ dùng. Hôm sau Trương Tấn Bửu lại đem về một chiếc thuyền lớn nói với Phúc Ánh:
- Nay giặc Tây Sơn đi lùng sục khắp nơi, sớm mượn gì cũng đến nơi này. Vậy mới Chúa thượng mau lên thuyền chạy ra ngoài hải đảo lạnh nạn mới yên.
Phúc Ánh nói:
- Năm xưa hai chúa cũng vì chạy ra hải đảo lánh nạn nên mới bị nữ tướng của giặc là Bùi Thị Xuân bắt ở cửa Hàm Luông. Nay nếu ta chạy theo đường đó làm gì mà không bị đón bắt như hai lần trước?
Bửu đáp:
- Xin Chúa thượng chớ lo, kênh rạch vùng này thân dân rất rành. Thân dân sẽ cho thuyền theo rạch nhỏ mà đi ra ngoài biển. Giặc Tây Sơn không thể nào biết được.
Phúc Ánh và Lê Văn Quân nghe lời đưa quốc mẫu và công chúa Ngọc Du lên thuyền theo Trương Tấn Bửu mà đi. Bửu cho ghe luồn lách trong rạch nhỏ quả nhiên không gặp quân Tây Sơn. Nhưng vừa ra cửa bể bỗng gặp nữ tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân đem vài chiến thuyền đi tuần tiễu trông thấy. Bùi Thị Xuân gọi lớn:
- Chiếc thuyền kia mau dừng lại cho quân ta tra xét.
Trương Tấn Bửu không đáp, giong buồm cho thuyền chạy ra khơi. Thị Xuân nói:
- Long Nhương tướng quân đoán không lầm. Quả nhiên là thuyền Phúc Ánh chạy trốn. Mau đuổi theo!
Phúc Ánh trông thấy Bùi Thị Xuân đuổi theo liền trương cũng lắp tên bắn một phát. Thị Xuân lẹ mắt chụp được mũi tên ấy, rồi lấy cung bắn trả. Tên bay xé gió trúng dây buồm dứt lìa. Thuyền Phúc Ánh đứt dây buồm không chạy được. Ánh cả kinh than:
- Lần nào ta chạy trốn cũng bị con tiện tỳ này rượt đuổi. Số của ta phải chết dưới tay đàn bà sao?
Than vừa dứt lời bỗng trời mây vần vũ, rồi mưa tờ gió lớn nổi lên. Bùi Thị Xuân liền hối quân chạy thẳng vào bờ nấp bão, lạ lùng thay chiếc thuyền nhỏ của Phúc Ánh trong giông bão giữa biển khơi lại chẳng hề hấn gì. Bão tan chẳng thấy thuyền quân Tây Sơn đâu nữa. Nhờ vậy Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Quân, Trương Tấn Bửu thoát được chạy ra đảo Phủ Quốc ẩn náu.
Nữ tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân sau cơn bão không thấy thuyền Phúc Ánh bèn thu quân về thành Sài Côn ra mắt vua Thái Đức, tâu:
- Thần dẫn quân đi tuần ngoài cửa bể Hàm Luông, gặp thuyền Phúc Ánh chạy trốn thần đuổi theo gần kịp, bỗng một cơn bão nổi lên thần đành cho thuyền vào bờ núp bão. Khi bão tan không thấy Phúc Ánh, đành kéo quân về ra mắt Bệ hạ.
Vua Thái Đức nói:
- Ở giữa biển lại gặp bão tố, thuyền Phúc Ánh làm gì mà không bị đắm. Phen này ắt là đã diệt xong dòng họ chúa Nguyễn. Phúc Ánh chết các tướng sĩ quân Nguyễn chạy trốn ắt là như rắn mất đầu ta có lo gì nữa.
Đoạn vua bảo các tướng:
- Hay chuẩn bị quân trang định ngày xa giá hồi kinh!
Nguyễn Huệ hỏi vua:
- Vậy hoàng huynh đệ Đặng Văn Long trấn thủ Gia Định chứ?
Vua Thái Đức suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
- Đỗ Nhàn Trập vừa mới hàng ta. Trập là người Gia Định ắt hiểu rõ nhân văn địa lý vùng này, ta cho Trập trấn thủ Gia Định là hợp lý. Vả lại, Trập vừa mới hàng ta, ta trọng dụng Trập lại càng tỏ rõ đức độ của ta. Thế chẳng phải là nhất cứ lưỡng tiện hay sao?
Vua Thái Đức nói xong liền để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập trấn thủ đất Gia Định. Nguyễn Huệ không dám cãi đành theo Nguyễn Nhạc đem đại binh về Quy Nhơn!
Nói về chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh nhờ cơn bão mà thoát khỏi tay nữ tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân chạy ra đảo Phủ Quốc. Hay tin vua Thái Đức và Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ rút đại binh về, Lê Văn Quân bàn:
- Nay anh em Nhạc, Huệ đã rút đại binh về Quy Nhơn, để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập trấn thủ đã Gia Định. Ta nên thừa cơ hồi này hưng binh khôi phục đất Gia Định.
Ánh buồn rầu hỏi:
- Nay ta ở đây chỉ có ngươi và Trương Tấn Bửu cùng mấy tên quân. Còn các tướng Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân không biết đang lẩn trốn nơi nào thì làm sao hội quân mà khôi phục đất Gia Định?
Quân hiến kế:
- Nay Chúa thượng nên viết chiếu chỉ mời mọi người đem quân vào Gia Định. Các tướng của ta hiện đang lẩn trốn nghe người ấy có mệnh của chúa ta hội tàn quân về theo thì có thể chiếm lại Gia Định.
Ánh hỏi ngay:
- Người ấy là ai?
Quân đáp:
- Ngươi này tên là Chu Văn Tiếp, quê ở huyện Phù Ly phủ Quy Nhơn. Lúc Nguyễn Nhạc làm loạn ở Tây Sơn, Tiếp mộ quân ở núi Bô Chinh Sơn kéo vào cứu quan trấn thủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên, chẳng may thua trận, anh của Tiếp là Châu Đoan Chữ tử trận. Tiếp bèn đem quân về đóng ở núi Trà Lang phủ Phú Yên. Sau Nguyễn Huệ lại đem quân vào Phú Yên đánh lão tướng Tống Phước Hiệp. Tiếp lại cứu được con Tống lão tướng quân là Tống Viết Phước. Trận ấy chẳng may em Tiếp là Châu Đoan Hãn lại bị tướng Tây Sơn là Phan Văn Lân giết chết. Chu Văn Tiếp có thù sâu với giặc Tây Sơn. Hiện Chu Văn Tiếp còn hơn ngàn quân ở núi Trà Lang giữa lòng đất địch mà vẫn giữ vững núi ấy thật đáng là danh tướng. Nay Chúa thượng nên viết mật chiếu triệu Chu Văn Tiếp vào Gia Định mới mong khôi phục cơ đồ.
Phúc Ánh nghe lại liền viết mật thư sai người ý tâm phúc đi đường bằng lên ra Phú Yên đến núi Trà Lang trao cho Chu Văn Tiếp.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 28

Chu Văn Tiếp trương cờ "Lương Sơn tá quốc".
Ngô Tùng Châu tiến cử "Gia Định tam hùng".



Lại nhắc đến Chu Văn Tiếp ở trong núi Trà Lang ngày ấy nghe quân vào báo:
- Tướng quân Tống Viết Phước đi dọ đường đã về đến xin vào ra mắt tướng quân.
Tiếp cho vào, Tống Viết Phước nói:
- Tôi vâng lệnh tướng quân đi dọ đường này việc đã xong nên về bẩm báo.
Tiếp nói:
- Ta muốn đem quân vào Gia Định hợp sức với chúa chống giặc Tây Sơn. Ngặt nỗi thuyền bè không có, không thể đi đường biển được, nên mới nhờ tướng quân đi dọ đường vào Gia Định. Nay việc ấy thế nào?
Phước đáp:
- Lúc theo cha tôi là Tống Phước Hiệp đem quân từ Gia Định ra đánh Tây Sơn chiếm lại Bình Thuận, Diên Khánh, Phú yên, tôi nhận thấy từ thành Trấn Biên đến Quy Nhơn chỉ có một con đường đại lộ dọc theo miền duyên hải mà thôi. Con ở hướng Tây toàn là núi non rừng rậm. Nay ta bí mật mở một con đường theo sườn núi phía Tây đi là vào được Trấn Biên như đường đại lộ vậy. Tiếp do dự hỏi:
- Nhưng việc mở đường e rằng khó quá!
Phước vung tay nói:
- Tôi vì nóng lòng báo thù nhà đến nợ nước xin đem quân đi trước mở đường. Nếu không như thế ta đành ở mãi trong núi Trà Lang này sao?
Phước vừa dứt lời có quân vào báo:
- Chúng tôi bắt được một người xưng là kẻ tâm phúc của Nguyễn Phúc Ánh xin được vào gặp tướng quân.
Tiếp liền cho vào. Tên quân đến quỳ thưa:
- Chúa thượng thua binh ở Gia Định phải chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn. Ngươi sai tôi trình mật thư cho tướng quân Chu Văn Tiếp.
Tiếp nhận thư, xem xong mừng rỡ nói:
- Nay chúa viết mật chiếu phong ta làm Bình Tây đại Nguyên soái, bảo gấp đem quân vào Gia Định đánh Đỗ Nhàn Trập chiếm lại Sài Côn. Phen này Chu Văn Tiếp ta đã lập được đại công rồi vậy, thể chẳng uổng công ta phải nằm chờ thời cơ trong núi Trà Lang suốt mấy năm nay. Và chẳng uổng công Tốn tướng quân ọ đường vào Gia Định.
Nói xong liền sai Tống Viết Phước đem năm trăm quân đi trước mở đường, còn Tiếp cùng em là Chu Đoan Chân và bộ tướng là Phạm Văn Sở đem toàn quân cùng băng rừng vào Gia Định.
Chu Văn Tiếp nóng lòng chiếm Sài Côn, nhận chức Bình Tây đại Nguyên soái, Tống Viết Phước mang nặng thù nhà ai nấy đều hết lòng thúc quân mở đường. Tiếp chia quân làm năm đội, đội nào mệt đi sau nghỉ ngơi, đội khoẻ lại lên trước chặt cây xẻ núi. Cứ như vậy luân phiên nhau suốt mấy tháng trời vào được đến khu rừng phía Tây thành Sài Côn.
Chu Văn Tiếp hội các tướng bàn việc đánh chiếm Sài Côn. Phạm Văn Sở hiến kế:
- Vừa rồi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem thuỷ binh vào đánh quân chúa ở sông Thất Kỳ Giang, các tướng đều tan tác mỗi người một ngã, chúa và Lê Văn Quân phải chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn. Theo tôi các tướng Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tôn Phước Lương, Nguyễn Nghi hiện đang lẩn trốn ở phía Đông Nam thành Sài Côn. Nay ta sai người lên các nơi ấy bảo các tướng hội quân nơi đây uy hiếp Thị Nghè. Đỗ Nhàn Trập ắt phải đem quân trong thành ra đồn Thị Nghè ở mặt Đông mà chống giữ không đề phòng ở phía Tây thành. Khi ấy ta bất ngờ từ hướng Tây đánh tới chắc là chiếm được thành.
Chu Văn Tiếp khen:
- Phạm Văn Sở thật là cao kiến. Nhưng việc liên lạc với các tướng phải cậy ai bây giờ?
Tống Viết Phước ra nói:
- Tôi mang ơn tướng quân cứu mạng, nay xin lãnh trọng trách này. Và chăng năm xưa cha tôi là Tống Phước Hiệp, anh tôi là Tống Viết Nghĩa bị Nguyễn Huệ đánh chết, lửa báo thù còn nung nấu tâm can. Nay hai anh là Tống Phước Khuông và Tống Phước Lương lại bị anh em Nhạc, Huệ đánh ở Thất Kỳ Giang chưa biết sống chết thế nào, tính cốt nhục dày vò gan mật. Vậy tôi xin lặn lội đi tìm các tướng trước là do đại sự, sau là vì tình riêng. Xin tướng quân thuận cho.
Văn Tiếp cả mừng nói:
- Nếu tướng quân lãnh nhận trọng trách này ta con lo gì nữa!
Nói rồi rót rượu tiễn Tống Viết Phước.
Tống Viết Phước đem theo vài người thân tín tìm đường về ấp Hoà Hưng thì trời vừa tối. Phước bèn gõ cửa một ngôi nhà xin vào tá túc. Chủ nhà ra mở cửa là một cụ già râu tóc bác phơ tinh thần quắc thước, cốt cách tiên phong. Cụ già hỏi:
- Khách lạ người phương nào, đi đâu trong đêm vắng gõ cửa tệ xá có điều gì chăng?
Phước cung kính đáp:
- Tôi vì đi tìm người thân, lỡ đường trời tối. Xin tiên sinh cho tạm ngủ qua đêm, sáng mai lại đi tiếp.
Cụ già mời Phước vào nhà. May thay lúc ấy hai tướng Tống Phước Lương và Tống Phước Khuông lại đang tá túc nhà sau, nghe tiếng người lạ, Khuông và Lương lên nhìn quá khe cửa thì thấy em mình là Tống Viết Phước. Khuông và Lương vội chạy ra ôm chầm lấy Phước. Anh em bất ngờ hội ngộ mừng mừng tủi tủi. Khuông hỏi:
- Từ ngày anh em ta theo cha ra Phú Yên đánh giặc Tây Sơn. Sau Nguyễn Huệ dùng mưu dương Đông kích Tây đánh lấy thành Phú Yên. Cha bị trúng tên của con nữ tặc Bùi Thị Xuân, uất hận mà chết, hai em thì bị vây ở chân núi Trà Lang anh không làm sao cứu được, lòng vô cùng đau đớn. Đến nay đã sáu năm, vì sao em mới về được đến đây, còn tam đệ Tống Viết Nghĩa ở đâu?
Phước gạt nước mắt đáp:
- Lúc ấy em và tam ca Tống Viết Nghĩa phục ở phía Bắc thành dưới chân núi Trà Lang, nghe ở thành Phú Yên súng nổ ầm ầm, lửa cháy rực trời liền kéo quân về cứu cha, không ngờ thành đã bị chiếm mất rồi tam ca bị tướng giặc là Đặng Văn Long chém chết. Em liều mình tử chiến trong cơn tuyệt vọng. May thay có tướng quân Chu Văn Tiếp chiêu binh mãi mã lập căn cứ trong núi Trà Lang đem quân cứu em cùng mấy trăm binh sĩ. Nay em tìm đường về đây là theo lệnh Chúa thượng Nguyễn Phúc Ánh, đi tìm các tướng mời khởi binh khôi phục lại thành Sài Côn.
Lương lấy làm lạ hỏi:
- Sau khi thua trận ở Thất Kỳ Giang chúa tôi thất lạc mỗi người một ngả. Nay chúa đang ở đâu mà em vâng lệnh chúa được?
Phước lấy mật thư của Nguyễn Phúc Ánh trao cho hai anh rồi nói:
- Chúa chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn, cũng không rõ các tướng đang ẩn náu nơi đâu, nên người mới sai kẻ tâm phúc mang mật thư ra Phú Yên gọi tướng quân Chu Văn Tiếp đem binh vào Gia Định đánh Đỗ Nhàn Trập. Hiện Chu tướng quân đáng giấu quân ở cánh rừng phía Tây thành Sài Côn. Em mới lãnh mạng đi tìm các tướng hội quân theo lệnh Chu tướng quân đánh giặc.
Khương mừng rỡ hỏi:
- Chu tướng quân có bao nhiêu binh mã?
Phước đáp:
- Có một ngàn năm trăm binh mã.
Khuông lắc đầu nói:
- Quân Đỗ Nhàn Trạp có tới bốn ngàn người lại trong thành Sài Côn vững chắc, lương tháo dồi dào thì một ngàn năm trăm quân của Chu Văn Tiếp là sao đánh thành cho được.
Nghe Khuông nói xong, cụ già chủ nhà cười hỏi:
- Sau năm trước Nguyễn Huệ chỉ dùng có năm ngàn quân mà trong một đêm đánh thắng hai vận quân của Tống lão tướng quân. Đến nỗi anh em phá ly tán sáu năm mới gặp mặt là vi đâu?
Khuông quay sang cụ già đáp:
- Lúc ấy do cha tôi lầm kế giương Đông kích Tây của Nguyễn Huệ nên mới bại binh.
Cụ già lại nói:
- Vậy tại sao nay không dùng lại kế ấy để dùng một ngàn năm trăm quân Chu Văn Tiếp đánh bố ngàn quân của Đỗ Nhàn Trập. Việc này còn dễ hơn năm xưa Nguyễn Huệ dùng năm ngàn quân đánh hai vạn quân của Tống lão tướng quân rất nhiều.
Khuông liền hỏi:
- Dám hỏi tiên sinh kế thế nào là giương Đông kích Tây?
Cụ già đáp:
- Thành Sài Côn tiếng là bốn mặt, nhưng thực chất chỉ có hai vùng. Mặt Tây, Bắc là vùng đất bằng rừng rậm, mặt Đông, Nam là vùng kênh rạch sông ngòi. Nay quân ta vừa mới thua ở sông Thất Kỳ Giang, Đỗ Nhàn Trập ắt đề phòng tàn quân của ta nơi đây ở mặt Đông, Nam mà không đề phòng mặt Tây, Bắc. Vậy các tướng nên thu thập tàn quân thừa lúc đêm tối đột kích đồn Thị Nghè làm kế nghi binh, Đỗ Nhàn Trập tất đem quân cứu đồn Thị Nghè. Lúc ấy Chu Văn Tiếp dẫn binh đánh vào mặt Tây, thành Sài Côn không phòng bị chắc chắn là chiếm được thành. Ấy chẳng phải là kế giương Đông kích Tây đó sao? Tướng quân Tống Viết Phước lặn lội đi tìm các tướng chẳng phải là để thi hành kế độc này sao?
Tống Viết Phước giật mình hỏi:
- Tôi đến đây chính là vì kế ấy! Dám hỏi tiên sinh cao danh quý tánh là chi mà nhìn xa thấy rộng như thế?
Tống Phước Lương đỡ lời đáp:
- Tiên sinh đây tên huý là Võ Trường Toàn, hiệu là Sùng Đức ở trường dạy học ở ấp Hoà Hưng đã lâu. Dạy học trò trung quân ái quốc, tuy về ở ẩn mà vẫn hết lòng vì chúa, nên hai anh thua trận mới về tá túc trong nhà.
Phước hỏi:
- Tiên sinh học rộng tài cao, đa mưu túc trí sao không ra giúp chúa, cứu nước nhà đang lúc hưng vong.
Võ Trường Toàn đáp:
- Lão này tuổi tác đã cao, mở trường dậy học không màng đến việc thiên hạ. Nhưng không lâu nữa sẽ cho học trò ra giúp chúa khôi phục cơ đồ.
Tống Phước Khuông nói:
- Ý tiên sinh như thế không nên nói ép làm chi. Ngày mai em hãy quay về thưa cùng Chu tướng quân hẹn ngày khởi sự.
Nhắc lại Đỗ Nhàn Trập về hàng Tây Sơn được vua Thái Đức phong là tổng đốc trấn thủ đất Gia Định, ngày ấy ở trong thành Sài Côn nghe quân vào báo:
- Thưa tổng đốc, các tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông Tống Phước Lương, thua binh ở Thất Kỳ Giang nay lại nổi lên tụ tập tàn quân tập kích đồn Thị Nghè tình thế rất nguy. Xin tổng đốc định liệu.
Đỗ Nhận Trập nghe báo liền đích thân đem hai ngàn quân ra tiếp viện đồn Thị Nghè, để thuộc tướng là Đỗ Thành Tôn thủ thành Sài Côn. Đỗ Nhàn Trập kéo binh đến đồn Thị Nghè thì quân Nguyễn đã lui binh. Bỗng có quân từ thành Sài Côn chạy đến báo rằng:
- Thưa tổng đốc, quân Nguyễn từ hướng Tây bất ngờ đánh tới quân ta ở trong thành trở tay không kịp nên bại binh. Tướng quân Đỗ Thành Tôn đã tử trận. Xin tổng đốc định liệu.
Đỗ Nhàn Trập thất kinh than:
- Thôi ta đã lầm gian kế của giặc rồi!

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 28 (tt)



Nói xong Trập dẫn quân chạy về cố thủ thành Trấn Biên. Chu Văn Tiếp và Phạm Văn Sở, Chu Đoan Chân chiếm được thành Sài Côn liền trường cờ bốn chữ "Lương Sơn Tá Quốc lên mặt thành. Các tướng Nguyễn là Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Tống Viết Phước cũng về hội quan trong thành, binh thế lại mạnh lên. Chu Văn Tiếp một mặt sai người ra đảo Phú Quốc đón chúa Nguyễn Phúc Ánh, một mặt sai Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân đem binh đánh Đỗ Nhàn Trập ở Trấn Biên. Đỗ Nhàn Trập đánh không lại phải chạy về cùng Phẩm Ngàn trấn thủ Bình Thuận rồi sai người ra Quy Nhơn cấp bảo. Từ ấy đất Gia Định từ Trấn Biên vào đến Hà Tiên lại về tay quân Nguyễn Phúc Ánh. Phúc Ánh về Sài Côn rồi liền xuống chỉ cầu hiện. Nhân tài đất Gia Định theo giúp rập rất đông như Lê Văn Duyệt, Hồ Công Siêu, Dương Đông Trừng, Nguyễn Văn Quý. Con cháu trong hoàng tộc lại có thêm Tôn Thất Mẫn và Tôn Thất Dụ đều là võ tướng anh hùng cả. Trong các võ tướng Nguyễn Phúc Ánh thấy Lê Văn Duyệt nhỏ người thấp bé tỏ ý không mấy quan tâm. Lê Văn Duyệt hiểu ý tâu rằng:
- Thưa Thượng vương, quân Tây Sơn đã ba phen vào đánh Gia Định, lần nào quân ta cũng đại bại là bởi do ta tổ chức phòng thủ không chu đáo mà nên cơ sự như thế
Ánh hỏi:
- Theo ngươi tổ chức như thế nào mới là chu đáo?
Duyệt giở bản đồ chỉ vào đáp:
- Quân Tây Sơn vào Gia Định luôn theo cửa Cần Giờ đánh vào thành Sài Côn. Đồn Thị Nghè là cửa ngõ trấn giữ mặt thuỷ của thành Sài Côn. Đồn tuy vững chắc những nằm trơ trọi một mình mà sông ngòi chằng chịt, giặc có thể dùng thuyền nhỏ theo kênh rạch rồi đổ bộ tấn công cả ba mặt, nên đồn Thị Nghè phải thất thủ là do thế. Nay Chúa thượng nên cho đắp ba đồn là đồn Bến Nghé, đón Thảo Câu và đón Dác Ngư, các nơi này đều quan trọng vì là cửa ngõ của các cửa sông đến thành Sài Côn. Đồng thời ta thao luyện thuỷ binh để chặn binh Tây Sơn từ cửa Cần Giờ. Nếu thuỷ binh ta yếu thế có thể lui về các đồn này cố thủ, làm thành thế ỷ giốc, như vậy sẽ có thể đối địch được với giặc Tây Sơn.
Phúc Ánh nghe xong giật mình nói:
- Nếu không nhờ ngươi mách bảo, ta chỉ lo thao luyện thuỷ quân mà quên mất việc về thành cố thủ. Ngươi tuy vóc người nhỏ nhắn mà thật là trí dũng song toàn.
Nói xong liền trọng dụng phong Lê Văn Duyệt làm tả tham mưu, luôn giữ bên mình bàn mưu định kế.
Một hôm Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Duyệt đi thuyền trên sông Bến Nghé quan sát các đồn mới đắp, bỗng nghe trong bờ sông có tiếng ca vọng ra:
Thảo Câu, Bến Nghé, Dác Ngư
Hàm rồng bỏ ngỏ cũng như không làm.
Phúc Ánh ngạc nhiên lệnh quân quay thuyền vào bờ tìm người vừa ca ấy. Quân giải một người tư cách phong lưu, tướng mạo khoan thai nho nhã đến. Ánh hỏi:
- Tiên sinh có phải là người vừa mới ca đó chăng?
Người ấy đáp:
- Thưa chính là thần dân.
Ánh hỏi:
- Tiên sinh cao danh là gì. Quê quán ở đâu?
Người ấy đáp:
- Thần dân tên Ngô Tùng Châu quê quán miền Quy Nhơn phủ, vào đất Gia Định tìm thầy học chữ thánh hiền, vốn là học trò cùng Đức, Võ tiên sinh.
Ánh cung kính hỏi:
- Nay ta cho đắp thêm ba đồn Thảo Câu, Bến Nghé, Dác Ngư cùng đồn Thị Nghè làm thế ỷ giốc trấn giữ thành Sài Côn, sao tiên sinh lại bảo " Hàm rồng bỏ ngỏ cũng như không làm", là cố ý gì?
Ngô Tùng Châu ung dung đáp:
- Nay Chúa thượng cho đắp thêm ba đồn Thảo Câu, Bến Nghé, Đắc Ngư là đề phòng thủ thành Sài Côn. Nếu Tây Sơn lại đi thuyền vào cửa bể Hàm Luông đánh lên Trường Đồn (Mỹ Tho), rồi lại kéo ra đánh vào mặt Nam thành Sài Côn. Khi ấy liệu bỏ đồn này có thể giữ được thành Sài Côn chăng. Vì cửa Hàm Luông là nơi trọng yếu của thành Trường Đồn nên thần dân mới nói Hàm Rồng bỏ ngỏ là do thế.
Lê Văn Duyệt giật mình tâu với Phúc Ánh:
- Kẻ sách đắp đồn giữ Sài Côn của thần là kế nhỏ, việc giữ yên đất Gia Định mới là kế lớn. Chúa thượng nên trọng dụng người này.
Nguyễn Phúc Ánh liền mời Ngô Tùng Châu về thành tiếp đãi trọng hậu. Ánh nâng ly mời rượu Châu rồi hỏi:
- Vậy theo tiên sinh thì phải thế nào?
Châu cạn ly hiến kế:
- Chúa thượng nên cho người hùng tài kiệt hiệt vào trấn thủ thành Trường Đồn chặn giữ Hàm Luông thì có thể yên tâm mà dưỡng uy sức nhuệ chờ ngày Bắc phạt.
Ánh hỏi:
- Hiện quân tướng của ta con ít nếu chia quân và giữ Hàm Luông, ngộ nhỡ Tây Sơn lại đánh cửa Cần Giờ thì làm thế nào?
Châu đáp:
- Thành Sài Côn và cửa Cần Giờ đã có nguyên soái Chu Văn Tiếp, ba anh em họ Tống, tướng quân Lê Văn Duyệt, Lê Văn Quân, Trương Tấn Bửu đồn giữ. Trấn Biên thì đã có Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân trấn thủ che chở mặt Bắc. Nay xin tiến cử ba người trấn thủ đất Trường Đồn chặn cửa Hàm Luông ở mặt Nam thì Chúa thượng không phải lo gì nữa!
Ánh vội hỏi:
- Ba người ấy là ai?
Châu cười hỏi lại Ánh:
- Chúa công khởi binh ở đất Gia Định đánh Tây Sơn không biết ở Gia Định văn thì có Gia Định Tam Gia, võ thì có Gia Định Tam Hùng hay sao?
Ánh khiêm tốn nói:
- Ta tầm nhìn hạn hẹp, xin tiên sinh chỉ giáo!
Châu thưa rằng:
- Thầy của thần dân là Sùng Đức Võ tiên sinh mở trường dạy học, tuổi đã già không ra giúp chúa, nay người sai thần dân tìm đến diện kiến Chúa thượng. Thầy còn ba người học trò có thừa lòng trung quân ái quốc, văn chương như nước chảy, trí tuệ tựa Thái Sơn. Ấy là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh được người đời xưng tưng là Gia Định Tam Gia. Nay Chúa thượng nên mời ba người này ra giúp nước trị quốc an dân. Dân có yên thì quân mới mạnh. Xin Chúa thượng minh xét.
Phúc Ánh cả mừng liền viết chiếu sai người đi triệu Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh. Xong việc Ánh lại hỏi:
- Ấy là văn, còn võ thì thế nào?
Châu đáp:
- Đất Long Hồ vùng Ba Thắc thì có Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức dấy binh. Ơ Tam Phụ giữ Trường Đồn thì có Võ Tánh hùng cứ. Lúc Chúa thượng chạy ra Phú Quốc ba người này vẫn một lòng đánh giặc Tây Sơn. Quân Tây Sơn thường gọi Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh và Đỗ Thành Nhân là Gia Định Tam Hùng. Sau Đó Thành Nhân làm phản Chúa thượng đã trừ đi. Xét về tài thì Nguyễn Văn Thành nào kém Đỗ Thành Nhân! Nay Chúa thượng nêm xuống chỉ dụ phong chức Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức chặn lối Hàm Luông, cho Võ Tánh làm Trường Đồn trấn thủ. Nếu được ba người này làm thành trì che chở mặt Nam, thì đất Gia Định, Nam Hà ta yên như bàn thạch vậy!
Ánh ngẫm nghĩ rồi nói:
- Hai người kia thì được, còn Võ Tánh không xong.
Châu lấy làm lạ nhướng mắt hỏi:
- Vì sao lại không xong?
Ánh thở dài đáp:
- Lúc trước Đỗ Thành Nhân và Võ Nhân làm phản, ta bất đắc dĩ phải giết đi. Võ Nhân là anh Võ Tánh. Hay tin đó, Tánh và Đỗ Nhàn Trập bỏ thành Trường Đồn đem quân Đông Sơn lui về rừng Tam Phụ ẩn náu. Rồi Đỗ Nhàn Trập lại về hàng giặc Tây Sơn, được Nguyễn Nhạc phong làm Trấn thủ Gia Định. Vừa rồi nhờ có Chu Văn Tiếp đánh đuổi Nhàn Trập đi lấy lại đất Gia Định. Việc như thế ta làm sao dám tin dùng Võ Tánh. Vả lại dù ta có tin dùng hồ dễ Võ Tánh lại đâm ra giúp. Việc này thật là khó!
Ngô Tùng Châu khoát tay nói:
- Xin Chúa thượng cứ xuống chỉ dụ. Thần dân xin vì Chúa thượng đi mời Gia Định Tam Hùng về giúp.
Ánh lại hỏi:
- Ngộ như Võ Tánh vì nhớ thù nhà mà hại đến tiên sinh thì sao?
Châu đáp:
- Tánh có thời gian theo hầu dưới trướng Sùng Đức Võ tiên sinh, cũng với thần dân có tình cố cựu. Võ Tánh này vì bất đắc dĩ mới bỏ Chúa thượng và ẩn ở rừng Tam Phụ, chứ Võ Tánh là người hết lòng trung quân. Việc này xin Chúa thượng chớ lo!
Nói rồi Ngô Tùng Châu từ biệt Nguyễn Phúc Ánh đi chiêu mộ Gia Định Tam Hùng. Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thánh nhân được chỉ dụ phong chức tướng quân liền đem quân đóng đồn canh phòng ở bến Hàm Luông. Thu phục Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành xong, Ngô Tùng Châu lại bôn ba đến rừng Tam Phụ diện kiến Võ Tánh. Võ Tánh mừng rỡ mới ngồi nói:
- Tôi từ ngày giã biệt thầy theo Đông Sơn chủ tướng đánh giặc Tây Sơn giúp chúa, đến nay mới gặp lại Ngô huynh. Chẳng hay Ngô huynh này đến đây có việc gì?
Châu lạnh lùng đáp:
- Tôi vâng lệnh thấy đến đây truyền đạt lời của thấy nhắn cùng Võ đệ!
Võ Tánh nghe nói có thầy chuyển lời liền quỳ xuống hỏi:
- Dám hỏi Ngộ huynh thấy nhắn gửi điều gì?
Ngô Tùng Châu lên tiếng rằng:
- Thấy bảo tôi nói cùng Võ tướng quân rằng: Ta không có người học trò nào tên là Võ Tánh cả. Từ nay về sau, xin Võ tướng quân chớ nhận thầy dậy và cho mình là Sùng Đức tiên sinh Võ Trường Toàn.
Võ Tánh thất kinh nói:
- Đôi với thấy, Tánh tôi vẫn một lòng tôn kính, vì cớ gì thầy lại từ tôi?
Tùng Châu làm mặt giận bảo:
- Thầy bảo rằng thấy đã từng dậy: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung". Chúa cho người đến Trường Đồn bắt, Võ đã lại dám bỏ thành mà trốn về Tam Phụ. Đó là một lỗi! Rồi vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vào đánh, Võ đã không đem quân cứu chúa, để đến nỗi chúa phải trốn tránh từ Sài Côn ra đến ngoài Phú Quốc. Ấy là hai tội! Đã không giúp chúa còn để cho Đỡ Nhàn Trập về hàng Tây Sơn. Ấy là ba tội! Với ba tội ấy thầy bảo với tôi rằng Võ Tánh bất trung nên không nhận tình thầy trò cùng Võ được nữa.
Võ Tánh nghe xong khóc ngất nói:
- Xin sư huynh về thưa cùng thầy kẻo oan cho Tánh tôi quá. Nguyên tôi không ở thành Trường Đồn chờ chúa đến bắt tội vì nghĩ thân này còn có ngày đánh Tây Sơn giúp chúa. Nên không màng câu: "Quân xử thần tử" mà kéo quân tạm tránh về rừng Tam Phụ, ấy là một lẽ! Chúa giết anh tôi, lại ngờ tôi cố ý báo thù, nếu tôi ra giúp chúa chắc gì chúa đã nhận, ấy là hai lẽ! Đỗ Nhàn Trập tự ý ra hàng không phải lỗi do tôi, ấy là ba lẽ! Nếu không có giặc Tây Sơn, Tánh tôi thà chết chứ đời nào lại chịu mang tiếng bất trung. Xin Ngô huynh về bẩm cùng thầy hộ tôi với.
Châu đỡ Tánh đứng lên nói:
- Việc ấy tôi sẽ với thưa với thấy minh oan cho tướng quân. Con việc đem quân ra giúp chúa đánh Tây Sơn thì sao?
Tánh gạt nước mắt đáp:
- Đánh Tây Sơn lúc nào tôi lại không đánh. Có ra giúp chúa bây giờ có hai điều e rằng chưa được!
Châu liền hỏi:
- Hai điều ấy là gì?
Tánh lại ứa lệ nói:
- Điều thứ nhất là chúa vẫn nghĩ rằng tôi làm phản, kéo binh về Tam Phụ đề báo thù anh. Điều thứ hai là bốn câu: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" còn có câu: "Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu". Anh tôi là Võ Nhân thay cha nuôi tôi từ thuở nhỏ thì cũng như là quyền huynh thế phụ. Nay cha chết chưa được mãn tang đã theo phò tá người giết cha mình thì chẳng mang tiếng là người bất hiếu hay sao? Bởi thế ngay bây giờ tôi chưa thể ra phò tá chúa được!
Ngô Tùng Châu trầm ngâm:
- Lời Võ đệ nghe ra có lý! Chẳng giấu gì Võ đệ tôi theo lệnh chúa đi chiêu mộ Gia Định Tam Hùng. Hiện Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức đá quy thuận đem quân đóng giữ ở cửa biển Hàm Luông. Chỉ còn có Võ đệ nữa là tôi đã làm tròn sứ mạng, bây giờ Võ đệ chưa thể ra giúp chúa được sao?
Tánh chưa xót đáp:
- Tiếng bất trung sớm muộn gì tôi cũng rửa được những nếu chưa mãn hẳn tang anh mà ra giúp chúa thì tiếng nhơ bất hiếu đến ngàn thu còn đó làu làu. Tánh tôi thà chết chứ đời nào lại làm người bất trung bất hiếu!
Ngô Tùng Châu không biết nói sao đánh cáo biệt ra về, thuật lại lời Võ Tánh cho Nguyễn Phúc Ánh, nghe xong Ánh nói:
- Nếu sau khi mãn tang Võ Nhân mà Vô Tánh không đem quân ra giúp là có ý ngờ ta.
Nó rồi bảo Ngô Tùng Châu chờ mãn tang Võ Nhân sẽ đến đón Võ Tánh. Ngô Tùng Châu vâng lệnh lui ra.
Từ ấy về sau Nguyễn Vương ngày đêm sai quân xây thành đắp luỹ, đãi sĩ cầu hiền, đóng thuyền đúc súng, tích thảo đồn lương, chiêu mộ binh lính, chờ có cô h6i là đánh Tây Sơn phục quốc!

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 29

Nguyễn Hữu Chỉnh cùng đường theo về Tây Sơn.
Chu Văn Tiếp thua binh chạy sang Tiêm Quốc.




Nói về chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Ngày ấy nhận thấy trong người sảng khoái, Trịnh Sâm liền bảo với phi tần Đặng Thị Huệ:
- Nhờ sứ giả của Tây Sơn Nguyễn Nhạc bày kế triệu Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn về để nhờ tướng quý của hai người này xua đuổi yêu ma. Từ ấy đến nay ta không thấy hồn Duy Vỹ theo báo oán nữa. Thật là trời giúp ta vậy!
Sâm vừa dứt lời, quân vào báo:
- Tâu Chúa thượng, lão tướng Bùi Thế Đạt và đại học sĩ Lê Quý Đôn lâm trọng bệnh qua đời.
Sâm giật mình hỏi:
- Hai người ấy mất lúc nào?
Quân đáp:
- Bùi tướng quân mất giờ Hợi. Đại học sĩ mất giờ Tý. Cùng trong một đêm.
Sâm ngửa mặt than:
- Ơi! Trời đã hại ta rồi!
Đêm ấy, Trịnh Sâm đang mơ màng giấc điệp bỗng thấy Thái tử Vỹ mặc hoàng bào, chân đi giầy tía khoanh tay đứng trên đầu giường nhìn chằm chạp vào mắt mình, Sâm kinh khiếp la hoảng giữa đêm khuya. Từ ấy về sau không đêm nào Trịnh Sâm ngủ yên được, thần sắc xanh xao, thân hình tiều tuỵ. Biết mình không sống được, Trịnh Sâm gọi Đặng Thị Huệ vào cạnh giường nói:
- Trước khi chết ta muốn viết di chiếu phế con lớn là Trịnh Khải, truyền ngôi cho con nàng là Trịnh Cán. Nhưng ngắt nỗi Trịnh Cán tuổi còn nhỏ, vả lại việc phế lập sau khi ta chết e rằng triều đình sinh biến, vậy phải cậy ai cho yên việc bây giờ?
Đặng Thị Huệ khóc thưa:
- Trong các tướng giỏi kể từ khi Việp quận công mất đi, chỉ có Huy quận công Hoàng Đình Bảo là hùng tài mọi người đều sợ phục. Nay Hoàng Đình Bảo đang trấn thủ đất Nghệ An, Chúa thượng nên triệu hồi Bảo về giao trọng trách thì lo gì không xong việc.
Sâm bảo:
- Lúc Tiên vương khởi binh đánh họ Mạc khôi phục cơ đồ cho nhà Lê Trung Hưng là ở đất Nghệ An nhờ dân binh ở xứ này mà làm nghiệp cả. Binh ở ở phủ Nghệ An, Thanh Hoá, Hả Tĩnh có công nên được gọi là lính "Tam phủ ưu binh". Bọn ưu binh ở kinh thành cậy có công lại thường hay làm loạn. Dân Nghệ An cậy có công lại thường hay yêu sách coi thường phép nước. Bởi vậy ta mới để Hoàng Đình Bảo trấn thủ Nghệ An, dùng uy mà uý lạo dân chúng.
Ta há chẳng biết Hoàng Đình Bảo la kẻ hùng tài sao? Nay nếu triệu Hoàng Đình Bảo về kinh thì phải cử ai vào thay Hoàng Đình Bảo trấn thủ Nghệ An?
Thị Huệ đáp:
- Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc có một người em rể là trung Hàu Vũ Tá Dao. Chúa thượng nên cho người này vào thay Hoàng Đình Bảo. Vả lại thủ hạ của Đình Bảo la Hữu tham quân nắm giữ binh ở Nghệ An tên là Nguyễn Hữu Chỉnh lại là em rẻ Vũ Tá Dao. Nay cho Vũ Tá Dao vào trấn Nghệ An cùng Nguyễn Hữu Chỉnh thì kẻ mới người cũ đều là anh em một nhà dễ dàng cộng sự với nhau hơn, ta không phải lo biến loạn ở trấn xa.
Trịnh Sâm khen phải, làm y theo lời Đặng Thị Huệ. Huy quận công Hoàng Đình Bảo về đến kinh thành liền vào yết kiến chúa Trịnh, Trịnh Sâm giao di chiếu cho Bao rồi truyền:
- Khanh hãy vì ta hết lòng phó Trịnh Cán lên kế vị. Có vậy ta mới yên lòng nhắm mắt.
Nói xong Sâm chết. Ấy là vào tháng chín năm Nhâm Dần niên hiệu Lệ Cảnh Hưng thứ bốn mươi ba. Sâm chết khi tròn bốn mươi bốn tuổi.
Triều đình lo hậu sự của Trịnh Sâm xong, Huy quận công Hoàng Đình Bảo bên phò Trịnh Cán, lúc ấy mới sáu tuổi lên thay quyền kế vị. Lúc bây giờ các quan trong triều thấy Đình Bảo làm điều phế lập, Trịnh Cán lại còn nhỏ tuổi nên lắm người không phục. Huy quận công Hoàng Đình Bảo, (người đường thời thường gọi là Quận Huy), hay qua lại bên cung Chánh cung Đặng Thị Huệ bàn bạc việc giữ ngôi cho ấu chúa Trịnh Cán. Một hôm từ cung Đặng Thị Huệ về, Huy quận công Hoàng Đình Bảo nghe quân báo:
- Thưa Quận công, dân chúng trong thành đặt lời ca phản nghịch ạ!
Bảo nhíu mày hỏi:
- Lời ca thế nào là phản nghịch?
Quân lấm lét cúi đầu thưa:
- Dân chúng khắp kinh thành đều ca rằng:
Trăm quan có một như mù
Để cho Huy quận vào rờ chính cung
Xin tâu cùng quận công định liệu.
Đình Bảo vỗ án quát:
- Đứa nào dám cả gan đặt lời càn rỡ. Ngươi hạ truyền lệnh ta sai quân mỗi người đem theo một cái móc đi khắp kinh thành, hễ nghe ai ca lời ấy đem móc kéo lưỡi ra mà cắt cho ta.
Quân vâng lệnh đi lùng sục tìm người ca lời ấy trị tội. Bỗng một cụ già say rượu ngất ngường hát:
Trăm quan có một như mù
Để cho Huy quận vào rờ chính cung
Quân lính nghe thấy liền dùng móc kéo lôi cụ già ra cắt rời lưỡi đi. Cụ già ôm miệng máu chạy về nhà rồi chết. Con ông già ấy tên Nguyễn Bằng làm chức biện lại trong quân "tam phủ ưu binh". Thấy cha chết thảm Nguyễn Bằng giận căm gan, liền tụ họp mấy người có uy tín trong quân tam phủ ưu binh, Nguyễn Bằng nói:
- Tiên chúa mới mất quận Huy đã tư thông với Chánh cung Đặng Thị Huệ, bỏ trưởng lập thứ. Trần Cán còn nhỏ, quyền hành ở trong tay quận Huy, quận Huy lại là người cương cường thường hay đối nghịch với tam phủ ưu binh ta, e rằng ta không thể yêu sách như lúc trước được. Chỉ bằng ta rủ nhau vào phủ chúa giết Hoàng Đình Bảo. Phế thứ Trịnh Cán, lập trưởng Trịnh Khải lên ngôi chúa thì sau này bọn ta muốn gì mà không được!
Mấy người kia khen phải. Nguyễn Bằng nói lại:
- Vậy chúng ta hay chia nhau vận động khắp trong quân tam phủ. Hẹn ngày mai tôi đến trước phủ chúa đánh ba hồi tróng, mọi người nghe trống lệnh hãy xúm lại giết quận Huy.
Hôm sau vừa tờ mờ sáng, nơi phủ chúa bỗng nghe ba hồi trống vang dội khắp nơi. Quân tam phủ tụ tập gần đó liền kéo đến vây phủ chúa, đông đến vài ngàn người. Quân vào phi báo cùng Hoàng Đình Bảo. Bảo mặc giáp cầm gươm mang cung tên lên voi dẫn theo vài mươi quân hộ vệ ra trước điện chúa. Bảo tuốt gươm quát:
- Ai xui các ngươi làm điều càn rỡ khinh lờn phép nước. Nay ta bảo các ngươi ai ở đâu thì về nơi ấy, ta sẽ tâu vua bỏ qua việc này, nếu không tội chết khó dung.
Quân tam phủ vốn sợ oai Hoàng Đình Bảo, vả lại không người chi huy ai nấy đều khép nép lui ra. Nguyễn Bằng lại nói với đồng bọn:
- Quận Huy tuy là người hữu dũng những trong tay chỉ có mấy mươi cận vệ thì làm gì được bọn ta. Nếu ta không làm tới nơi tới chốn mà nghe lời hắn bỏ đi, rồi hắn phụng mệnh chúa điều binh các trấn về bắt bọn ta, chừng ấy ai bênh vực cho bọn ta được?
Quân tam phủ nghe Bằng nói xong nhao nhao:
- Phải đó! Phải đó! Chỉ có lập chúa mới thì bọn ta đã vô tội lại còn có công. Mau xong lên giết chết quận Huy.
Nói xong muôn người như một nhất tề xông lên. Hoàng Đình Bảo thấy thế lấy cung mà bắn chẳng ngờ cung gấy, lấy súng nạp đạn mà bắn thuốc, đạn đốt lại không cháy. Bảo bèn vung gươm ngồi trên bành voi chém xuống, quân tam phủ chết vài mươi người. Bọn chúng liền dùng móc câu kéo Đình Bảo té xuống đất đâm chết. Chúng chia người đi đón Trịnh Khải để trên chiếc mâm đồng khiêng sang phủ chúa đặt lên ngai. Trịnh Khải nhờ quân tam phủ làm loạn được lên ngôi chúa xưng là Đoan Nam Vương, phe Trịnh Cán xuống làm Cung quận công. Đoan Nam Vương lại sai quân tam phủ đi lùng bắt đồng bọn của Hoàng Đình Bảo mà giết. Bọn lính tam phủ thừa dịp ấy đi khắp trong thành ngoại nội cướp bóc của nhân dân. Tiếng kêu oán thán vang dậy đất trời.
Lúc bây giờ thủ hạ của Hoàng Đình Bảo có một người tên là Nguyễn Viết Tuyển trốn thoát được chạy vào Nghệ An tìm gặp Nguyễn Hữu Chỉnh, nói:
- Thưa tướng quân, bọn kiêu binh ở kinh thành nơi đây giết chết Huy quận công, bắt Thái phi Đặng Thị Huệ giảm vào ngục, phế chúa Trịnh Cán xuống làm Cung quận công, phò Trịnh Khải lên ngôi chúa xưng là Đoan Nam Vương. Sớm muộn gì Đoan Nam Vương cũng mật chiếu sai người vào bắt tướng quân vì tôi và tướng quân đều là người của Huy quận công. Tôi mấy thoát được vào đây báo cùng tướng quân hãy lo liệu sớm.
Chỉnh liền giấu Nguyễn Viết Tuyển trong nhà rồi sang đinh trấn thủ Nghệ An là Dao trung Hầu, Vũ Tá Dao. Chỉnh hỏi Đào:
- Ở kinh thành quân tam phủ đã giết chết quận Huy, phe Trịnh Cán, lập Trịnh Khải làm Đoan Nam Vương, chẳng hay trung hầu đã biết chưa?
Vũ Tá Dao thở dài đáp:
- Nay lại có việc này nữa sao? Thật triều đình không còn kỷ cương gì nữa cả. Từ xưa đến nay cha từng nghe nói quân lính nào lại nổi loạn giết vua quan như bọn tam phủ này cả. Rồi sự việc thế nào?
Chỉnh đáp:
- Đoan Nam Vương sai người tìm giết phe đảng của Huy quận công Hoàng Đình Bảo, ắt sớm muộn gì cũng có mật chỉ đến bắt tôi.
Đạo hỏi:
- Vậy nay ông tính thế nào?
Chỉnh đáp:
- Huy quận công Hoàng Đình Bảo, phó tướng trấn thủ Thuận Hoá là Hoàng Đình Thể và tôi trước là thuộc tướng của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Nay tôi xin khuyên Hoàng Đình Thể giết chết trấn thủ là Phạm Ngô Cầu chiếm lấy đất Thuận Hoá là một tay cứu viện. Còn ông giữ lấy trấn Nghệ An giữ thế môi và răng cùng các tướng Thuận Hoá, rồi đóng trọng binh ở các nơi hiểm yếu, tích thảo đồn lương thì có thể giữ được lâu dài. Còn việc phòng giữ mặt biển Chỉnh này xin cáng đáng hết cả.
Vũ Tá Dao suy nghĩ rất lâu chẳng nói gì, Chỉnh nóng ruột hỏi:
- Trung hầu tính thế nào?
Đào đáp:
- Việc này là ra mặt phản lại triều đình, tự lập riêng một cõi thật là điều đại sự. Hãy thư thả cho ta suy nghĩ rồi sẽ nói.
Chỉnh thấy Vũ Tá Dao ý không dám làm liền nói:
- Chờ ông suy nghĩ xong chắc là triều đình đã có mật chỉ vào bắt tôi rồi đấy!

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 29 (tt)



Nói rồi bỏ về nhà hối thúc gia quyến thu xếp hành lý đưa vợ con xuống một chiếc thuyền lớn. Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
- Tướng quân định tránh nơi nào lại đi bằng thuyền?
Chỉnh cười đáp:
- Trời đất bao la lại không có chỗ cho ta dung thân sao? Nay chúa không dùng ta thì ta vào cùng Tây Sơn Nguyễn Nhạc!
Nói xong dong buồm đi thẳng vào Quy Nhơn ra mắt vua Thái Đức. Gặp vua, Chỉnh quỳ lậy, vua Thái Đức vội vàng đỡ dậy và hỏi:
- Ông đến đây ắt là có chiếu chỉ của chúa. Vậy ta phải quỳ tiếp chiếu mới phải sao ông lại quỳ là cớ làm sao?
Chỉnh không dám đứng lên, cúi lấy thưa:
- Nay bọn kiêu binh làm loạn ở Thăng Long giết Huy quận công Hoàng Đình Bảo, phế Trịnh Cán và Trịnh Khải lên ngôi chúa. Trịnh Khải lại ra lệnh tập nã tay chân của Huy quận công, nên thần phải trở vào đây xin Bệ hạ dung nạp.
Vua Thái Đức lại hỏi:
- Tây Sơn ta là nước nhỏ, ông là người của nước lớn. Nếu ta dùng ông ngộ nhỡ chúa Trịnh đem binh vào vấn tội thì ta biết liệu làm sao?
Chỉnh đáp:
- Bệ hạ đã có chí tự lập không nhận sắc phong của họ Trịnh nên mới lên ngôi Hoàng đế, việc tiến thủ ắt đã có kế sách thì Bệ hạ có sợ gì họ Trịnh mà mượn cớ thoái thác. Nếu Bệ hạ không dùng, Chỉnh tôi xin được chết tại nơi này!
Vua Thái Đức cười bảo:
- Ta chỉ thử Hữu Chỉnh một tý mà thôi. Ta và ông vốn là cô nhân trong lúc đánh Định Vương Nguyễn Phúc Thuần sao nỡ bỏ nhau khi hoạn nạn.
Nói xong vua sai quân bày yến tiệc khoản đãi Nguyễn Hữu Chỉnh. Rượu vào vài chén, Chỉnh nói:
- Nay ở đất Bắc Hà, họ Trịnh hiếp đáp vua Lê khiến thiên hạ bất bình. Vừa rồi Trịnh Sâm chết, hai còn là Trịnh Khải và Trịnh Cán lại tranh ngôi chia phe đảng giết hại lẫn nhau. Cương thường đã mất, giềng mối đã lìa, lại thêm nói bình kiêu dân oán không còn ra thể thống gì cả. Nếu Bệ hạ nhân dịp này mà đem binh ra đánh một trận thì đất Bác Hà không thuộc vào Bệ hạ thì con ai vào đây nữa!
Vua Thái Đức nói:
- Bắc Hà là nước của vua Lê sao ta lại đem binh xâm phạm được? Vả lại họ Trịnh từ khi lấy được đất Thuận Hoá rồi dùng ải Hải Vân làm ranh giới nước ai người ấy giữ, sao ta lại dấy động can qua làm khổ cho lê dân trăm họ? Nay ông đã đến đây, đối với ta là thượng khách sống an nhàn há chẳng hơn sao?
Vừa vừa dứt lời quân do thám về báo:
- Tâu Bệ hạ, Chu Văn Tiếp từ Phú Yên đi đường núi vào Gia Định đánh lấy Sài Côn, tướng quân Đỗ Nhàn Trập thua chạy về Bình Thuận. Chu Văn Tiếp đón Phúc Ánh từ Phú Quốc về hưng binh đánh chiếm đất Gia Định. Tướng quân Đỗ Nhàn Trập sai người về báo cùng Bệ hạ định liệu.
Vua Thái Đức liền sai Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ, tiết chế Nguyễn Lữ, tướng quân Lê Trung, phò mã Trương Văn Đa đem một trăm chiếc đại thuyền và một vạn quân vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vua Thái Đức bàn đánh Nguyễn ở phương Nam nên đành thôi không xin vua đem quân đánh Trịnh ở mặt Bắc nữa.
Bây giờ là mùa xuân, tháng hai, năm Quý Mão (1783), nội thành Sài Côn Nguyễn vương họp các tướng bàn quốc sự. Nguyễn vương lo lắng hỏi:
- Quân do thám của ta từ Quy Nhơn báo tin về rằng:
Nguyễn Huệ đang chuẩn bị binh thuyền vào đánh ta. Vậy theo các khanh ta nên đối phó như thế nào?
Chu Văn Tiếp bước ra thưa:
- Tâu Thượng vương, bộ quân ta đã có Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân thủ thành Trấn Biên. Nay ta cho tướng đem quân tăng cường yểm trợ cho Hồ Văn Lân thì mặt Bắc không phải lo gì nữa. Cửa Hàm Luông thì Ngô mưu sĩ đã tiến cử Nguyễn Văn Thân và Nguyễn Huỳnh Đức chặn giữ, vậy mặt Nam đất Gia Định cũng chẳng phải lo. Đáng lo nhất vẫn là cửa Cần Giờ tiến đến Thất Kỳ Giang vỗ mặt đồn Thị Nghè uy hiếp mặt Đông thành Sài Côn. Đạo quân này chắc chắn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Nếu ta đánh thắng được đạo quân của Nguyễn Huệ, các đạo khác tự khắc sẽ tan.
Nguyễn vương lại hỏi:
- Quân Tây Sơn rất thiện chiến, Nguyễn Huệ là giỏi dùng quân. Lần trước ta phục binh ở Thất Kỳ Giang mà không lừa được Nguyễn Huệ nên bị thua trận. Vậy nay phải đánh thế nào?
Chu Văn Tiếp cười đáp:
- Quân Tây Sơn lần trước đánh Thượng vương Thất Kỳ Giang dùng hoả hổ đốt tàu đồng của người Pháp Lang Sa. Vậy trên thuyền của giặc lúc nào cũng có chất dẫn hoả. Theo tơi ta nên dĩ độc trị độc!
Nguyễn vương vội hỏi:
- Thế nào là dĩ độc trị độc?
Tiếp vui vẻ hoạt bát đáp:
- Đất Gia Định chỉ có hai mua: từ tháng ba để tháng tám là mùa mưa, gió Năm từ biển thổi vào, từ tháng chín đến tháng hai là mùa khô gió bấc, mà người Gia Định thường gọi là gió Chướng từ đất liên thổi ra. Nay là tháng hai mùa khô gió Chướng, ta lợi dụng sức gió nên dùng hoả công mà đánh. Quân Tây Sơn lại có chất dẫn hoả trên thuyền, ấy chẳng phá là dĩ độc trị độc đó ư? Xin Thượng vương suy xét!
Nghe xong Nguyễn vương mừng rỡ nói:
- Chu Nguyên soái thật có tài đại tướng, ta còn lo gì không thắng được Nguyễn Huệ. Nay ta giao trọn quyền điều binh cho khanh. Mau báo tiệp khai hoả cho ăn lòng ta Văn Tiếp nhé!
Chu Văn Tiếp lãnh lệnh, bái tạ Nguyễn vương rồi dẫn thuỷ binh đến Thất Kỳ Giang bày trận.
Đến sông Thất Kỳ Giang gặp lúc nước thuỷ triều đang lai láng, gió Chướng lồng lộng từ đất liền thổi ra biển, Tiếp phấn khích hạ lệnh:
- Châu Đoan Chân lãnh án tiên phong đem hai mươi đại thuyền và hai ngàn quân ra cửa Cần Giờ đánh giặc, giả thua chạy vào Thất Kỳ Giang.
Châu Đoan Chân lạnh lệnh đi ngay. Tiếp lại bảo Phạm Văn Sở:
- Ngươi hãy dẫn quân đem một ngàn bè cỏ phục hai bên bờ sông, chờ Châu Đoan Chân giả thua chạy qua khỏi rồi phóng hoả bè cỏ đẩy ra giữa sông chặn thuyền quân Tây Sơn mà đốt.
Phạm Văn Sở lạnh mệnh xuất quân. Tiếp ngoảnh lại bảo các tướng:
- Các ngươi chuẩn bị binh thuyền, chờ ta đốt xong thuyền Tây Sơn thì đổ ra vây bắt Nguyễn Huệ.
Tống Phước Lương vòng tay nói:
- Nếu Nguyễn Huệ vào Thất Kỳ Giang chắc chắn sẽ bị Chu đô đốc đời nay dùng hoả công mà đánh cho tan tán, khác nào Chu đô đốc ngày xưa đốt Tào Tháo trên sông Xích Bích vậy!
Nói rồi Phước cùng các tướng chia nhau bố trận.
Phần Nguyễn Huệ dẫn quân Tây Sơn đến ngoài khơi cửa Cần Giờ, nhìn vào núi Cấp thấy khói bốc lên nghi ngút, Huệ cười bảo:
- Lại đốt lửa báo hiệu trên núi Cấp rồi phục binh ở Thất Kỳ Giang như cũ chớ gì!
Nói rồi Huệ hạ lệnh:
- Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo đem ba mươi đại thuyền và ba ngàn quân vào cửa Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn chặn đường Nguyễn Phúc Ánh từ Sài Côn chạy về Hà Tiên.
Hai tướng Long và Bảo lãnh lệnh đi ngay. Huệ lại tuốt gươm chỉ vào cửa Cần Giờ bảo:
- Trương Văn Đa lãnh ấn tiên phong, lệnh toàn quân tiến đánh Sài Côn.
Quân Tây Sơn hùng dũng tiến lên!
Vào đến cửa Cần Giờ bỗng gặp thuyền quân Nguyễn do Châu Đoan Chân tiến ra. Hai bên giáp chiến, vừa mới giao phong Châu Đoan Chân hô quân tháo lui. Nguyễn Huệ thấy vậy cười bảo:
- Lại giả thua dụ ta vào trận mai phục như lần trước chứ gì! Truyền đánh trống thu binh!
Nguyễn Lữ nghi ngại hỏi:
- Nay là mùa khô, gió chướng từ bờ thổi ra, quá ta nghịch gió. Nếu tiến binh ngộ nhỡ Chu Văn Tiếp đánh hoả công thì làm thế nào? Bởi thế anh mới đánh trống thu binh chớ gì?
Nghe Lữ nói xong, Nguyễn Huệ gật đầu rồi bảo:
- Truyền lệnh dừng quân lập thuỷ trại!
Quân Tây Sơn neo thuyền ngoài cửa Cần Giờ nghỉ ngơi. Đến lúc nước lớn đầy, gió bấc chướng vẫn lồng lộng từ đất liền thổi ra. Nguyễn Lữ nói:
- Nếu lúc này ta tiến quân ắt giờ này vào Thất Kỳ Giang đã bị Chu Văn Tiếp dùng hoả công mà đốt mất rồi!
Nguyễn Huệ chỉ mỉm cười mà không nói. Nước triều lên đầy rồi lại chảy, bấy giờ Nguyễn Huệ lại truyền lệnh tiến quân. Nguyễn Lữ bèn can:
- Nước vẫn còn đang chảy, gió bấc chướng thổi ra; phần tiến quân ngược nước gió, phần thì địch thuận lợi dùng hoả công, sao anh lại tiến binh vào lúc này?
Nguyễn Huệ cười đáp:
- Chu Văn Tiếp thì biết gì mà đánh hoả công. Vả lại nếu nói gió bấc chướng sợ giặc đánh hoả công chẳng lẽ lại rút quân về? Cứ truyền lệnh ta lập tức tiến quân.
Nguyễn Lữ vội can.
- Xin anh đừng nên khinh địch. Hãy sai quân do thám rồi tiến binh cũng chẳng muộn nào.
Nguyễn Huệ gạt đi báo:
- Địch tình ta đã nắm rõ thì cần gì do thám.
Nói rồi không nghe lời Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ bảo quân:
- Ngược nước chèo đổ mồ hôi. Gặp giặc, không đổ máu mã giặc phải tan!
Quân sĩ Tây Sơn không rõ vì cớ gì, nhưng vốn tin phục Nguyễn Huệ nên gắng sức mà chèo!
***
Nói về Chu Văn Tiếp thấy Châu Đoan Chân giả thua chạy về mà không thấy quân Tây Sơn đuổi theo. Tiếp bảo Chu Đoan Chân rằng:
- Bây giờ nước đang lớn hãy cho quân nghỉ ngơi, đợi sang ngày mai nước chảy sẽ đem quân ra dụ địch.
Nước lên đến trưa thì đầy; đầy xong lại chảy; chảy đến chạng vạng tối thì đã gần cạn kiệt. Trong bóng đêm chập choạng, bỗng thấy thuyền Tây Sơn lừ lừ tiến vào trận Thất Kỳ Giang, Chu Văn Tiếp ngạc nhiên nói:
- Nguyễn Huệ sao lại tiến binh vào lúc nước đang chảy. Chắc hẳn sợ mai phục nên ngược nước để đánh bất ngờ chăng?
Đoạn Tiếp ngước nhìn trời, trời còn gió bấc chướng, cúi nhìn nước, nước vẫn chạy riu riu. Tiếp mừng rỡ nói:
- Quân Tây Sơn cậy mạnh, Nguyễn Huệ cậy có tài mà khinh địch, phen này ắt bại dưới tay ta.
Đoạn Tiếp truyền lệnh:
- Quân bay thuận nước thuận gió phóng hoả bẻ cỏ đẩy ra giữa sông!
Quân Gia Miêu lập tức thi hành! Một ngàn bè cỏ cất cao ngọn lửa rần rật trôi về phía quân Tây Sơn. Nguyễn Lữ thất kinh than:
- Em đã can rồi mà anh còn khinh địch. Giờ giặc đánh hoả công phải chạy cho mau.
Nguyễn Huệ lại cười nói:
- Chu Văn Tiếp làm nội ứng cho ta đốt thuyền quân Nguyễn đây. Em chớ lo!
Lúc ấy gió bấc chướng mỗi lúc một giảm dần, bè lửa trôi chầm chậm về phía quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ vỗ tay cười ngất bảo quân:
- Truyền đánh trống thu binh!
Chu Văn Tiếp thấy quân Tây Sơn lui, liền xua đại binh theo sau bè lửa mà tiến. Tiếp bảo các tướng:
- Chờ bè lửa đốt thuyền giặc xong, hay tiến truy bắt Nguyễn Huệ.
Tiếp vừa dứt lời trời bỗng nhiên lặng gió, mặt sông phẳng lặng như tờ. Bấy giờ nước thuỷ triều lại lớn lên, bè lửa theo nước trôi ngược về thuyền quân Nguyễn.
Chu Văn Tiếp con đang bàng hoàng ngơ ngác, bỗng trời nổi gió nồm nam từ biển thổi vào rất mạnh. Ngàn bè lửa thuận gió, thuận nước chạy ào ào về đốt thuyền quân Nguyễn. Chu Văn Tiếp ở phía sau thấy vậy ngửa mặt lên trời hét rằng:
- Trời hại ta rồi! Trời hại ta rồi!
Hét xong vội vã cùng các tướng quay thuyền mà chạy.
Thuyền quân Nguyễn Gia Miêu bị đốt cháy tan tác, khói lửa ngút trời. Bên quân Tây Sơn, Nguyễn Huệ bảo Nguyễn Lữ:
- Anh đã bảo Chu Văn Tiếp làm nội ứng cho ta đốt quân chúa Nguyễn giờ em đã thấy chưa?
Nói rồi Huệ truyền quân thúc trống tiến binh. Các tướng Nguyễn tan hàng mạnh ai nấy chạy trốn, Chu Văn Tiếp được em mình là Châu Đoan Chân hộ vệ chạy về hướng Sài Côn. Bỗng thấy một chiếc thuyền Tây Sơn giong buồm đuổi theo, một viên tướng Tây Sơn đứng trên mui thuyền quát lớn:
- Tướng giặc kia chớ chạy, có ta là phò mã Trương Văn Đa đến đây!
Chu Đoan Chân bảo Tiếp:
- Anh hãy dùng thuyền nhỏ chèo vào bờ lên đất liền mà chạy. Em ở đây chặn giặc rồi sẽ theo sau.
Tiếp nghe lời liền cùng Phạm Văn Sở xuống thuyền nhỏ vào bờ. Đến nơi, nhìn ra sông thấy Chu Đoan Chân đã bị Trương Văn Đa đâm chết, Tiếp khóc lớn rằng:
- Ba anh em của ta đều bị giặc Tây Sơn giết chết. Thù này không trả được, Chu Văn Tiếp ta đâu đáng là người. Đoạn Chân em ới, trời đổi gió đã hại chết em rồi!

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 29 (tt)



Tiếp đau lòng than khóc mãi. Phạm Văn Sở can gián một hồi, Tiếp gạt nước mắt bảo:
- Quân Tây Sơn đi thuyền tiến đánh Sài Côn, ta đi đường bộ về thành không kịp. Vậy phải làm sao?
Phạm Văn Sở hiến kế:
- Theo tôi ta nên băng rừng đến thành Trấn Biên hợp cùng Hồ Văn Lân và Nguyễn Nghi đem binh và chiếm lại Sài Côn.
Chu Văn Tiếp khen phải liền tất tả đi ngay. Đến đoạn đường lớn giữa thành Sài Côn và Trấn Biên, bỗng thấy vài tên quân từ hướng Bắc chạy vào, Tiếp chặn lại hỏi:
- Các ngươi là quân ở đâu lại chạy đến đây?
Tên quân đáp:
- Chúng tôi ở dưới trướng tướng quân Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân. Thành Trấn Biên bị tướng Tây Sơn là Đặng Xuân Phong và Đỗ Nhàn Trập chiếm mất, hai tướng Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân không biết trốn tránh nơi nào.
Lại thấy vài tên quân từ hướng Nam chạy đến bảo:
- Thưa đại Đô đốc, Nguyễn Huệ đem quân đánh thành Sài Côn, các tướng giữ đồn Thảo Câu, Thị Nghè, Bến Nghé, Dác Ngư đều tử trận. Chúa thượng đã bỏ thành Sài Côn chạy vào Trường Đồn.
Chu Văn Tiếp thất kinh than:
- Quân ta bại trận khắp nơi. Thành Sài Côn và Trấn Biên đều mặt về tay giặc, ta biết phải đi đâu?
Phạm Văn Sở lại hiến kế:
- Tôi có nghe ngày trước chúa ta và vua nước Tiêm La kết giao sẽ cứu giúp nhau khi hoạn nạn. Nay ta hãy tìm đường sang Tiêm quốc. Xin Tiêm vương đem thuỷ quân sang Hà Tiên đến Trường Đồn hợp cùng Chúa thượng đánh Tây Sơn.
Chu Văn Tiếp khen phải liền cùng Phạm Văn Sở và vài mươi tên quân băng rừng nhằm hướng Tây tìm đường sang Tiêm quốc.
Nói về Nguyễn Phúc Ánh trong thành Sài Côn nghe quân ở đồn Thị Nghè về báo:
- Thưa Chúa thượng, Nguyễn Huệ đánh tan quân của Chu nguyên soái ở Thất Kỳ Giang. Chu nguyên soái chưa biết sống chết thế nào. Nguyễn Huệ lại chia quân làm bốn cánh đánh bốn đôn Thảo Câu, Thị Nghè, Bến Nghé, Dác Ngư Tướng của ta giữ đồn Thị Nghè là Hồ Công Siêu tử trận.
Quân đồn Bến Nghé về báo:
- Thưa Chúa thượng, tướng quân giữ đồn Bé Nghé là Dương Công Trừng bị Nguyễn Lữ chém chết. Quân Tây Sơn đã chiếm lấy đồn.
Phúc Ánh con đang bàng hoàng, lại nghe quân đồn Dác Ngư về cấp bảo:
- Thưa Chúa thượng, tướng Tây Sơn là Lê Trung tiến đánh đồn Dác Ngư, tướng quân Nguyễn Văn Quý tử trận, hiện quân Tây Sơn đang ồ ạt tiến về thành Sài Côn.
Phúc Ánh hoảng hốt hối quân:
- Hai tướng Lê Văn Duyệt và Trương Tấn Bửu lãnh ba ngàn quân đi đoạn hậu. Mau mở cửa Nam thành chạy về cố thủ Trường Đồn.
Nguyễn Huệ và các tướng dẫn quân chiếm thành Sài Côn bỏ trống. Nguyễn Lữ hỏi Huệ:
- Trận Thất Kỳ Giang sao anh biết rằng Chu Văn Tiếp sẽ đánh hoả công mà lợi dụng sức gió đốt thuyền quân Nguyễn?
Huệ đáp:
- Nay là tháng hai ở Quy Nhơn là mùa xuân, mưa thuận gió hoà, khí hậu mát mẻ. Nhưng ở đất Gia Định lại là mùa nắng to khô ráo thì làm gì Chu Văn Tiếp lại không dùng hoả công mà đánh ta. Nên ta mới nói đùa cũng Nguyễn Lữ rằng Chu Văn Tiếp là nội ứng cho ta đốt thuyền quân chúa Nguyễn đấy.
Trương Văn Đa lại hỏi:
- Thúc phụ đã biết Chu Văn Tiếp dùng hoả công sao còn tiến quân? Nếu lúc đó trời không trở giờ có phải là quân ta đã bị đốt thành tro bụi rồi chăng.
Nguyễn Huệ cười to nói:
- Ấy là ta biết trước giờ đổi gió nên mới tiến binh, sao Văn Đa lại bảo là may gặp lúc trời đổi gió.
Trương Văn Đa và Lệ Trung đồng thanh hỏi:
- Làm cách nào thúc phụ biết trước giờ đổi gió?
Nguyễn Huệ liền treo trên vách một tờ lịch và nói:
- Các ngươi hãy nhìn cho rõ, sẽ biết giờ đổi gió.
Lịch viết rằng:
Tháng 2 và tháng 8 thuỷ triều là ngày: 03, 17, 29.
Tháng 3 và tháng 9 thuỷ triều là ngày: 13, 27
Tháng 4 và tháng 10 thủy triều là ngày: 11, 25
Tháng 5 và tháng 11 thuỷ triều là ngày: 09, 23
Tháng 10 và tháng chạp thuỷ triều là ngày: 07, 21
Tháng 7 và tháng giêng thuỷ triều là ngày: 05, 19
Nguyễn Lữ xem xong thắc mắc hỏi:
- Thuỷ triều là ngày gì? Sao biết được giờ đổi gió?
Huệ giải rằng:
- Đất Gia Định chỉ có hai mùa. Từ tháng ba để tháng tám là mùa mưa gió nồm Nam từ biển thổi vào. Từ tháng chín đến tháng hai là mùa khô gió bấc chướng từ đất thổi ra. Chu Văn Tiếp định lợi dụng mùa khô gió bấc chướng dùng hoả công đốt thuyền ta đó.
Nguyễn Lữ nôn nóng hỏi:
- Nhưng vì sao anh lại biết giờ đổi gió mà tương kế tựu kế đốt lại thuyền quân chúa Nguyễn?
Nguyễn Huệ chỉ vào tờ lịch đáp:
- Ngày thuỷ triều là ngày chuyển giao giữa hai con nước, mỗi tháng có hai con nước nên có hai ngày thuỷ triều. Riêng tháng hai và tháng tám lại có ở ngày thuỷ triều là ngày 3, ngày 17 và ngày 29. Con nước thứ ba mà ngày thuỷ triều là ngày 29 gọi là nước giao mùa. Gặp nước giao mùa gió bị ảnh hưởng của thuỷ triều, hệ nước chảy thì gió bấc chướng từ bờ thổi ra, hễ nước triều lên gió nồm Nam từ biển thổi vào. Ta chọn thời gian vào Cần Giờ lúc hạ tuần tháng hai, tức là nhằm con nước giao mùa. Ta lựa ngày nước phát lên xuống mạnh nhất trong con nước giao mùa mới tiến binh, vì ngày đó khi nước lên sẽ có gió nồm Nam. Bởi thế ta phải tiến quân vào lúc nước chảy, trời con bấc chướng, tất đến Thất Kỳ Giang khi nước sắp lên. Ấy là ta nhử Chu Văn Tiếp thấy cơn bấc chướng mới dùng hoả công. Tiếp phóng bè lửa xong, lúc sẩm tối nước thuỷ triều sẽ lớn lên, trời tất đổi gió nồm Nam quay lại đốt thuyền quản Gia Miêu. Bởi lúc sấm tối nước lên, lặng bấc trở nồm, nên dân vùng biển thường có câu vè rằng "Bắc lặng hôm, nồm lặng mai" đó. Đánh trận này ta đã tính trước cả sao lại bảo lá may gặp lúc trời trở gió!
Nghe Huệ nói xong, các tướng bấy giờ mới vỡ lẽ đồng thanh khen:
- Long Nhương đánh giặc liệu cả việc nắng mưa, nước gió, dụng binh thật quỷ thân cũng không tính trước. Chúng tôi xin bái phục.
Vừa lúc ấy quân do thám vào báo rằng:
- Thưa tướng quân, trấn thủ Bình Thuận là Đăng Xuân Phong và Đỗ Nhàn Trập đem quân đến chiếm Trấn Biên. Tướng Nguyễn là Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân thua binh bỏ trốn.
Nguyễn Huệ ra lệnh:
- Nguyễn Lữ lãnh hai ngàn binh ở lại giữ Sài Côn. Ta cũng Trương Văn Đa, Lê Trung đem bốn ngàn quân truy kích quân Nguyễn. Trận này phải bắt cho được Nguyễn Phúc Ánh. Giống cỏ gấu này không nhổ tận gốc cứ nảy ra hoài thật là đáng ghét.
Nói rồi Nguyễn Huệ liền đem quân đuổi theo Nguyễn Phúc Ánh.
Nói về Phúc Ánh dẫn quân chạy về đến Trường Đồn (Mỹ Tho), tướng giữ Trường Đồn là Mạc Thiên Tứ mở cổng thành đón vào. Vừa lúc ấy Nguyễn Huệ dẫn quân đuổi theo thấy Phúc Ánh đã vào thành bèn nói với Trương Văn Đa và Lê Trung:
- Trước khi vào cửa Cần Giờ ta đã sai Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo vào cửa Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn, chắn đường rút binh của Nguyễn Phúc Ánh. Chúa Phúc Ánh đã sai tướng giỏi chắn cửa Hàm Luông, nên Long và Bảo chưa đến được nơi này. Vạy ta mau đánh lấy Trường Đồn rồi đem quân xuôi đồng Tiền Giang đánh vào sau lưng địch ở cửa Hàm Luông.
Nói rồi Nguyễn Huệ hạ lệnh tấn công Trường Đồn.
Quân Tây Sơn đặt đại bác bắn phá thành. Lê Văn Quân nói với Phúc Ánh rằng:
- Chúa thượng mau đem gia quyến theo Mạc Thiên Tứ lui về Hà Tiên. Thân cùng Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu thủ thành cản đường tiến quân của giặc.
Nguyễn Phúc Ánh nghe lời theo Mạc Thiên Tứ chạy về Hà Tiên, Lê Văn Quân lên mặt thành thúc quân cố sức chống trả. Một lúc sau thành vỡ, quân Tây Sơn tràn vào thành chém giết. Quân Nguyễn chết thôi không biết bao nhiêu mà kể, số còn lại lớp hàng, lớp quăng gươm giáo bỏ trốn. Lê Văn Quân, Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu vội vàng lên ngựa chạy về Hà Tiên theo Phúc Ánh.
Nguyễn Phúc Ánh về Hà Tiên vừa vào dinh phủ chưa kịp ngồi đã thấy Lê Văn Quân, Văn Duyệt, Tấn Bửu theo đến nơi. Người nào cũng mang thường tích trên mình, quần áo tả tơi mặt mày hốc hác. Ánh giật mình hỏi:
- Ta vừa mới đến đây, các khanh đã thua trận chạy về, quân Tây Sơn sao lấy được thành nhanh thế?
Lê Văn Quân quỳ thưa:
- Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ đích thân chỉ huy công thành rất dữ. Chúng thần không chống nổi, thành vỡ thua binh phải chạy thoát thân. Xin Chúa thượng trị tội.
Ánh đứng dậy và nói:
- Mất Trường Đồn thì quân của Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành ở Hàm Luông nguy mất. Các tướng mau thu thập tàn quân chỉnh đốn hàng ngũ theo ta tái chiếm Trường Đồn.
Ngô Tùng Châu bước ra nói:
- Xin Chúa thượng bình tâm. Quân ta ở trong thành, giặc từ xa kéo đến, ta còn không giữ nổi thành, huống gì quân ta nay mười phần còn một tướng sĩ đều mệt mỏi, thương tích đầy mình. Nếu bây giờ giặc đem quân đánh tới, thành Hà Tiên e rằng không giữ nổi nói gì đến việc tái chiếm Trường Đồn.
Phúc Ánh nghe xong ngồi xuống hỏi:
- Vậy nay ta nên chống giữ thế nào?
Tùng Châu đáp:
- Nguyễn Huệ vừa chiếm được Trường Đồn ắt là chuẩn bị đánh ta ở Hà Tiên, sớm muộn gì cũng kéo binh đến đây. Vậy Chúa hãy mau sai người lên mất báo cho Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức đang trấn giữ cửa Hàm Luông, kéo quân về đánh vào sau lưng Trường Đồn. Nếu lúc ấy Nguyễn Huệ kéo đại binh đến đánh Hà Tiên, thì Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành có thể chiếm lại Trường Đồn. Nếu Đức và Thành chiếm lại được Trường Đồn thì Nguyễn Huệ lại lâm vào thễ lưỡng đầu thọ địch. Khi ấy Nguyễn Huỳnh Đức từ Trường Đồn đánh tới, ta từ Hà Tiên đánh ra thế nào cũng phá được giặc.
Phúc Ánh khen:
- Ấy thật là diệu kế.
***
Lúc ấy Nguyễn Huệ vào thành Trường Đồn, Lê Trung nói:
- Tôi xin đem quân đuổi theo Phúc Ánh đến Hà Tiên bắt Phúc Ánh về cho Long Nhương trị tội, cho tiết nòi cỏ gấu ấy đi!
Huệ bảo:
- Hà Tiên là thành trì cuối cùng của Phúc Ánh. Nếu ta đem quân đánh tới, Ánh chỉ con đường chạy ra biển mà thôi. Hiện Phúc Ánh như cả nằm trong chậu, ta muốn bắt lúc nào chẳng được, việc đánh Hà Tiên chẳng vội gì. Kế hoạch của ta là cho Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo đánh chiếm Trường Đồn trước, chặn đường về Hà Tiên để sớm bắt được Phúc Ánh. Nhưng Lòng và Bảo vẫn chưa đến được nơi này ắt là Phúc Ánh đã cho tướng giỏi chặn Văn Long ở cửa Hàm Luông. Vậy Lê Trung hay lãnh hai ngàn tinh binh theo sông Tiền Giang ra cửa Hàm Luông dẫn vào sau lưng trại địch. Phá giặc ở Hàm Luông xong, Trung cùng Văn Long đem quân về đây hợp sức đánh Hà Tiên bắt Phúc Ánh cũng chẳng muộn gì!
Lê Trung lãnh mệnh đi ngay.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 30

Cửa Hàm Luông, Nguyễn Huỳnh Đức thua mưu bị bắt.
Đảo Côn Lôn, Nguyễn Phúc Ánh nhờ bão thoát thân.




Nói về Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức theo mệnh chúa Nguyễn Phúc Ánh đem quân đóng ở cửa biển Hàm Luông. Ngày ấy được tin quân Tây Sơn do Đặng Văn Long chỉ huy tiến vào cửa Hàm Luông, Nguyễn Văn Thành liền hỏi Nguyễn Huỳnh Đức:
- Quân Tây Sơn thuyền to súng lớn lại rất là thiện chiến, còn quân ta mới mộ chưa được huấn luyện thuần thục, e rằng không chống nổi với địch ông có kế gì chặn giặc hay chăng?
Đức suy nghĩ giây lâu đáp:
- Nguyễn Huệ sai Đặng Văn Long vào cửa Hàm Luông ý muốn theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn chặn đường rút quân của chúa ta ở thành Sài Côn. Tôi có nghe Đặng Văn Long là danh tướng của Nguyễn Huệ, trí dũng song toàn, lầu thông kính sử. Nay ta lập tức sai người đem vài cọc gỗ vót nhọn hai đầu, cắm xuống lòng sông. Ta bảo quân cắm như thế nào để khi nước lên các cọc gỗ này sẽ bị long gốc nổi lên mặt nước, rồi ta cứ làm như vậy... như vậy... Đặng Văn Long ắt sợ mà phải lui binh!
Nguyễn Văn Thành khen:
- Ấy thật là diệu kế!
Nói rồi lập tức thi hành.
Khi ấy tướng Tây Sơn là đô đốc Đặng Văn Long đem chiến thuyền vào cửa biển, thúc quân tiến đánh thuỷ trại của quân Nguyễn. Nguyễn Huỳnh Đức đem chiến thuyền ra cự địch, quân Nguyễn đánh không lại xem đã núng thế, Đức liền hạ lệnh lui quân. Quân Nguyễn giả thua mà chạy, Đặng Văn Long thúc quân đuổi theo, lúc ấy thuỷ triều đang lớn, nước đang lai láng, Nguyễn Huỳnh Đức hối quân:
- Truyền lệnh ta chèo gấp khỏi tầm đại bác của giặc. Qua khỏi khúc sông này nước thuỷ triều rút giặc sẽ rút theo.
Lúc ấy Đặng Văn Long đang đứng trên mui thuyền cầm đầu quân Tây Sơn đuổi theo quân Nguyễn, bỗng chốc lại thấy vài cọc gỗ hai đầu vót nhọn từ dưới đáy sông trồi lên khỏi mặt nước, tất cả được hơn vài mươi cọc gỗ, lại thấy xa xa một đoàn chiến thuyền cắm cờ quân Nguyễn từ thượng lưu sông Tiền Giang kéo xuống, Đặng Văn Long liền bảo quân:
- Mau truyền lệnh ta đánh trống thu binh.
Đặng Xuân Bảo ngạc nhiên hỏi:
- Quân ta đang thắng, giặc thua chạy sao đại huynh lại ra lệnh lui quân?
Văn Long đáp:
- Ngày xưa Ngô Quyền dùng mưu đóng cọc xuống lòng sông Bạch Đằng rồi thừa lúc nước lớn cho thuyền ra khiêu chiến nhử quân Nam Hán đến đoạn sông đóng cọc rồi chặn đánh, đến khi nước cạn thuyền giặc bị đâm thủng đều đắm cả. Quân Nam Hán đại bại, tướng giặc là Hoàng Thao bị chém. Nay Nguyễn Huỳnh Đức giả thua mà chạy rồi lại cho thuyền ra tiếp ứng, chẳng phải là dùng mưu Ngô Quyền ngày trước hay sao? May cho ta là quân Nguyễn nôn nóng đóng cọc dưới lòng sông không được chắc chắn, nên lúc nước lớn vài mươi cọc bị nhổ mà trồi lên mặt nước, nên ta mới rõ mưu của Nguyễn Huỳnh Đức mà kịp lui quân.
Đặng Xuân Bảo khen:
- Đại huynh thật là rảnh cả cô kim binh pháp và Nguyễn Huỳnh Đức quá không họ đánh là một tròn Gia Định Tam Hùng.
Nói rồi anh em họ Đặng rút quân khỏi khúc sông nghi ngờ có cọc, lập thuỷ trại.
Lúc ấy Nguyễn Văn Thành theo kế Nguyễn Huỳnh Đức đem vài trăm quân chật tre và chuối làm bè, trên bè cắm đầy cờ xí khiến Đặng Văn Long ở xa ngỡ là chiến thuyền quân Nguyễn tiếp ứng sợ lâm mưu cắm cọc phải lui binh. Nguyễn Văn Thành dẫn quân chèo bè tre đến nói:
- Đặng Văn Long quả nhiên trúng kế chạy dài. Sao ông không thừa tháng đuổi theo?
Đức nhíu mày suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
- Ta vì yếu thế mới tạm dùng kế này lui giặc. Để khi nước cạn Đặng Văn Long không thấy cọc gỗ cắm ở lòng sông, tất biết lầm mưu tức giận lại đem quân đến đánh. Vậy ta cứ đem bè tre cắm đây cờ xí làm kế nghi binh đóng thuỷ trại nơi này. Tôi và ông đem binh mai phục, chờ Đặng Văn Long kéo đến sẽ đổ ra vây đánh. Như vậy có thể phá được giặc.
Nguyễn Văn Thành lại khen:
- Ấy thật là diệu kế!
Nói về Đặng Văn Long lui ra khỏi khúc sông nghi có cọc, lập thuỷ trại, lúc nước cạn không thấy cây cọc nào cắm giữa lòng sông cả. Đặng Văn Long khen rằng:
- Nguyễn Huỳnh Đức thật đa mưu túc trí. Thực lực không bằng quân ta nên mượn chuyện xưa làm kế nghi binh buộc ta phải lui binh. Đáng khen thay! Đáng khen thay!
Đặng Xuân Bảo tức giận nói:
- Anh cứ đề cao địch làm giảm nhuệ khí quân ta. Tôi xin đem quân tiên phong đánh trại địch, nếu không thắng xin chịu tội theo quân lệnh.
Đặng Văn Long dắt Bảo ra ngoài thuyền chỉ về hướng thuỷ trại quân Nguyễn nói:
- Em không thấy thuỷ trại giặc cờ xí rợp trời, chiến thuyền lớp lớp hay sao mà đòi đem quân đánh địch?
Bảo đáp:
- Ấy là Nguyễn Huỳnh Đức dùng kế nghi binh để gạt ta. Nếu thực lực như thế sao con giả bày kế cắm cọc lòng sông đuổi đại huynh chạy dài. Nếu không có đại huynh tôi không cần biết Ngô Quyền nào cả, cứ thúc quân đánh bừa ắt là bắt được Huỳnh Đức rồi.
Văn Long nói:
- Được, đêm nay Bảo đem một ngàn quân đến thuỷ trại của địch, trận này nhất định phải bắt sống Nguyễn Huỳnh Đức.
Xuân Bảo hỏi:
- Con đại huynh thì thế nào?
Long đáp:
- Khi em đến đánh thuỷ binh trại địch, nếu bị vây thì chớ sợ, đã có anh tiếp cứu.
Nói xong Long kề tai Bảo nói nhỏ. Bảo nghe xong anh em cũng cả cười rồi chia nhau sửa soạn chờ đến đêm xuất kích.
Đêm ấy Đặng Xuân Bảo đem chiến thuyền áp sát thuỷ trại quân Nguyễn. Thấy thuỷ trại địch toàn là bè tre bè chuối cắm cờ, đốt đèn sáng choang, Đặng Xuân Bảo nghĩ thầm rằng, đại huynh ta liệu việc không sai, thì vừa hay đã thấy hai cánh quân Nguyễn từ thượng lưu và hạ lưu xông ra vây Xuân Bảo vào giữa. Nguyễn Văn Thành ở thượng lưu quát lớn:
- Tướng giặc đã trúng kế quân ta, sao con chưa quy hàng?
Xuân Bảo cười ngất đáp:
- Mẹo vặt của các ngươi sao lừa đại huynh ta được. Hãy nhìn xem ai trúng kế của ai nào?
Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức nhìn ra đã thấy quân Tây Sơn lướt thuyền ào ào xông tới. Nguyễn Huỳnh Đức thất kinh than rằng:
- Thôi rồi, Đặng Văn Long biết kế của ta mà tương kế tựu kế. Phen này nguy mất.
Than rồi hối quân quay thuyền phá vòng vây. Đặng Văn Long trông thấy cười to quát:
- Nguyễn Huỳnh Đức chạy đâu cho thoát!
Quát xong liền cho thuyền chặn Huỳnh Đức mà đánh. Đặng Xuân Bảo đem quân tấn công Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Văn Thành nhờ ở thượng lưu vòng vây quân Tây Sơn mỏng ra sức tả xung hữu đột, phá được vòng vây thừa bóng đêm chạy trốn, quân Nguyễn bị quân Tây Sơn giết sạch. Cánh quân do Nguyễn Huỳnh Đức chỉ huy cũng bị đánh tan tác cả. Quân Tây Sơn nhảy sang thuyền Huỳnh Đức, Đức vung đao chém chết cả mấy chục mạng. Đặng Văn Long thấy vậy nổi giận vác kích nhảy sang đánh cùng Huỳnh Đức. Đánh một hồi Nguyễn Huỳnh Đức đuối sức bị Đặng Văn Long đánh văng mất đao. Long liền hô quân trói lại. Đức bảo:
- Ta đã bại trận sao chẳng giết đi con trói làm gì?
Long nói:
- Khá khen cho người là người trung dũng, ta bắt ngươi đem về chúa ta xử trí.
Nói rồi liền hô quân thẳng tiến Trường Đồn. Thuyền vừa đi được một đoạn đã thấy Lê Trung dẫn quân đến. Long hỏi Trung:
- Long Nhương tướng quân đã chiếm được Trường Đồn rồi chăng?
Trung đáp:
- Phải! Long Nhương bảo tường quân ít gặp tướng giỏi của Phúc Ánh chặn đường nên Người sai tôi đêm quân tiếp cứu.
Long nói:
- Không chiếm được Trường Đồn để Phúc Ánh chạy thoát là tội của tôi vậy!
Nói rồi từ trói tay mình, vào thành Trường Đồn, Long và Bảo quỳ xuống thưa:
- Tướng quản giao trọng trách đánh chiếm Trường Đồn, chặn đường lui quân của Phúc Ánh, tôi không làm tròn sứ mạng. Xin tướng quản trị tội!

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 30 (tt)



Nguyễn Huệ sai quân mở trói cho Long và Bảo hỏi:
- Có phải Văn Long gặp tướng giỏi chặn đánh chăng?
Long liền thuật lại việc đánh nhau với Nguyễn Huỳnh Đức trên sông Tiền Giang rồi nói:
- Nguyễn Huỳnh Đức thật là người trí dũng song toàn. Nay tôi đã bắt được Huỳnh Đức về đây tự tướng quân định liệu.
Nguyễn Huệ liền sai quân giải Huỳnh Đức vào. Đức vào vẫn đứng trơ trơ giữa điện. Huệ vỗ án quát:
- Bại tướng to gan. Trước mặt ta sao dám không quỳ?
Đức cười to nói:
- Phận làm tướng thua binh, cam chịu chết. Sao lại quỳ?
Huệ bảo:
- Quân lệnh của Tây Sơn là không giết hàng quân. Nếu người chịu hàng cớ gì phải chết?
Đức quát lên rằng:
- Ta là tôi nhà chúa Nguyễn, chỉ có chết chẳng có hàng!
Huệ thấy Huỳnh Đức diện mạo khôi ngô, hình dung kỳ vĩ, lại mười phần trung dũng trong lòng rất thích, liền bước xuống tự tay mở trói cho Huỳnh Đức, nói:
- Bình sanh ta rất mến mộ đấng anh hùng. Nguyễn Phúc Ánh tài đức gì mà tướng quân quyết một lòng chết vì Phúc Ánh thế?
Đức lớn giọng bảo:
- Giặc Tây Sơn các ngươi dấy binh phản chúa. Ta giúp chúa khôi phục cơ đồ, chẳng may sa cơ bị bắt chỉ có chết mà thôi.
Huệ dịu giọng hỏi:
- Tây Sơn ta dấy binh cứu dân thoát cảnh lầm than đói khổ sao lại bao là giặc?
Đức hỏi lại Huệ rằng:
- Đất Gia Định ta từ ngày được chúa Nguyễn vào đuổi người Chân Lạp khai hoang lập ấp đến nay đời đời no ấm, sao lại bảo là nhân dân đói khổ lầm thân?
Huệ không biết trả lời thế nào đành lệnh giam Huỳnh Đức vào ngục. Quân dẫn Đức đi xong, Huệ nói với các tướng:
- Trong sự nghiệp thống nhất giang san của nhà Tây Sơn ta có hai trở ngại lớn, một là đất Gia Định được cơm nó áo ấm nên bá tánh còn mang ơn chúa Nguyễn, hai là lòng trung quân mù quáng từ ngàn xửa đến nay đã thấm sau vào tiềm thức kẻ sĩ khó mà gột rửa được.
Trương Văn Đa hỏi:
- Thưa thúc phụ, vậy không có cách gì bình được đất Gia Định sao?
Huệ trầm ngâm nói:
- Muốn bình đất Gia Định phải dùng hai cách một là ta dùng ân mà trị dân để dần dần trăm họ sẽ quên ơn chúa Nguyễn. Sau này nếu ta rút đại binh về Quy Nhơn, sẽ để Đặng Văn Long và Trương Văn Đa trấn thủ đất Gia Định, hai người đều có tài văn võ, biết nghe lời nói phải, kính trên nhường dưới, thương dân như con thì có thể lấy được lòng dân. Ấy là một trong hai cách vậy!
Văn Long hỏi:
- Con cách thứ hai thì thế nào?
Huệ lạnh lùng đáp:
- Cách thứ hai là kẻ sĩ trong thiên hạ còn nặng óc ngu trung. Nay ta không cho họ có chúa xem họ ngu trung vào đâu.
Rồi Huệ đứng dậy vỗ tay xuống án nói lớn:
- Đặng Văn Long, Lê Trung đem bốn ngàn quân tiến đánh Hà Tiên!
Đặng Văn Long và Lê Trung lãnh mệnh xuất quân. Huệ lại bảo Trương Văn Đa:
- Quân ta tiến đánh Hà Tiên, Phúc Ánh ắt thu binh mã chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn, vậy ta mà đem thuỷ binh ra đảo Phú Quốc trước. Ngươi hay để chiến thuyền vào chỗ kín đáo giấu hết cả đi, rồi để quân phục sẵn trên đảo chờ có Phúc Ánh đến thì đổ ra mà đánh. Như thế chắc là diệt được Phúc Ánh.
Trương Văn Đa lại lãnh lệnh xuất thuỷ binh.
***
Lại nói Phúc Ánh ở Hà Tiên nói cùng các tướng:
- Ta đã sai người mặt báo cho Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức lên đánh vào sau lưng Trường Đồn nếu Nguyễn Huệ tiến đánh Hà Tiên. Đến nay vẫn không thấy Nguyễn Huệ động bình, và không nghe tin tức gì của Văn Thành và Huỳnh Đức cả là cớ làm sao?
Ánh vừa dứt lời nghe quân vào báo:
- Thưa Chúa thượng, có tướng quân Nguyễn Văn Thành từ Hàm Luông về xin ra mắt.
Ánh liền bảo:
- Mau cho vào!
Nguyễn Văn Thành vào đến quỳ tâu:
- Thưa Chúa thượng chúng thần vâng lệnh Chúa thượng giữ cửa Hàm Luông. Tướng Tây Sơn là Đặng Văn Long tiến đánh, chúng thần dùng kế nghi binh lừa được giặc, những sau đó lại lầm mưu thất trận, Nguyễn Huỳnh Đức bị Đặng Văn Long bắt sống. Thần may mắn thoát được về đây báo tin cùng Chúa thượng.
Nguyễn Văn Thành nói xong lại nghe quân thám mã:
- Thưa Chúa thượng, Nguyễn Huệ kéo đại binh tiến đánh Hà Tiên, hiện còn ở cách thành năm mươi dặm.
Phúc Ánh nói:
- Vậy là Nguyễn Huệ trước là đã cho tướng vào cửa Hàm Luông đánh Văn Thành và Huỳnh Đức, nay Văn Thành và Huỳnh Đức thua trận, Huệ mới tiến đánh ta ở Hà Tiên. Nguyễn Huệ thật đáng sợ, không có kế nào của ta có thể che mặt hắn được. Hà Tiên là nơi cố thủ cuối cùng của ta, nay Huệ lại đem binh tiến đánh, các tướng có cách gì chặn giặc chăng?
Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Trương Tấn Bửu, Lê Văn Quân cùng bước ra nói:
- Xin Chúa thượng chớ lo, chúng thần nguyện liều mình chống giặc.
Các tướng vừa nói xong quân lại vào báo:
- Thưa Chúa thượng, quân sĩ của ta nghe tin Nguyễn Huệ kéo đại binh đến đánh sợ hãi rủ nhau ở trốn nửa phần. Xin Chúa thượng định liệu, kéo để chúng trốn hết thì nguy.
Nguyễn Văn Thành nói:
- Xin Chúa thượng hạ lệnh canh phòng cẩn mật, kẻ nào bỏ trốn lập tức chém đầu, như thế hoạ may quân mới không bỏ trốn.
Ánh xua tay bảo:
- Quân bỏ trốn là do lỗi ở ta không chống được giặc để yên lòng quân thì sao lại chém họ. Vả lại quân đã không còn tinh thần chiến đấu, bắt ở lại cũng chẳng ích gì.
Ánh lại gọi Mạc Thiên Tứ hỏi:
- Lâu nay khanh vốn trấn thủ Hà Tiên ắt rành địa thế sông ngòi. Vậy khanh có chước gì phá giặc chăng?
Mạc Thiên Tứ đáp:
- Thưa Chúa thượng, xưa này chưa từng nghe nói địa thế hiểm trở mà lòng quân tan rã lại có thể thắng giặc bao giờ!
Ánh lại hỏi:
- Vậy theo khanh này nên làm thế nào?
Tứ đáp:
- Thưa Chúa thượng, Nguyễn Huệ đã hai lần vào Gia Định đánh ta, lần nào chiếm được đất xong cũng vội vàng rút quân về vì sợ họ Trịnh xâm phạm mặt Bắc, chỉ để một lực lượng nhỏ ở lại phòng thủ mà thôi. Lần thứ ba này ắt cũng thế, vậy ta nên tạm ra đảo Phú Quốc ở phía Tây Hà Tiên lánh nạn, rồi cho người ở lại Hà Tiên phao lên rằng chưa đã chạy trốn sang Tiêm La quốc. Nghe tin ấy Nguyễn Huệ tất không dò la tin tức của chúa, mà rút quân về Quy Nhơn. Lúc ấy ta lại tìm kế khôi phục cơ đồ.
Mạc Thiên Tứ vừa nói xong, quân hớt hải vào báo:
- Thưa Chúa thượng, quân Tây Sơn đã kéo đến cách thành chừng năm dặm.
Phúc Ánh với đứng lên bảo:
- Nay chỉ còn cách là làm theo lời Mạc Thiên Tứ mà thôi!
Nói rồi Ánh truyền lệnh bỏ thành Hà Tiên, xuống thuyền ra đảo Phú Quốc. Khi lên thuyền kiểm quân còn chưa đến ngàn người, Ánh đậm chân chỉ tay lên trời thề rằng:
- Nguyễn Phúc Ánh ta thề cùng anh em thằng buôn trâu Nhạc, Huệ không đội trời chung.
Nói rồi truyền quân nhỏ neo nhằm đảo Phú Quốc trực chỉ. Quân Nguyễn Ánh cập thuyền vào bờ, chúa tôi tướng sĩ vừa lên đảo bỗng nghe chiêng trống vang trời, quân Tây Sơn ba bên xông đến. Tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa thét lớn:
- Nguyễn Phúc Ánh chạy đâu cho thoát, ta vâng lệnh Long Nhương tướng quân chờ ngươi đã lâu!
Phúc Ánh chẳng còn hồn vía nào hỏi các tướng:
- Mau quay lại ra thuyền chạy trốn!

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 30 (tt)



Trương Văn Đa thúc quân đánh giết. Các tướng cố sức chống đỡ bảo vệ Phúc Ánh xuống được thuyền, còn quân sĩ lớp chết lớp xin hàng hết cả. Trương Văn Đa thúc quân lên thuyền đuổi theo, Nguyễn Phúc Ánh lên thuyền rồi cứ nhằm ra khơi mà chạy. Nhìn đi nhìn lại chỉ còn mấy người hầu cận, Lê Văn Quân, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Trương Tấn Bửu, Mạc Thiên Tứ và con Mạc Thiên Tứ là Mạc Tử Sinh người nào cũng mang thương tích cả, Nguyễn Phúc Ánh than:
- Nguyễn Huệ thật là lời hại. Hắn biết ta sẽ chạy ra đảo Phú Quốc nên cho tướng ra phục sẵn. Nếu không nhờ các khanh hết lòng phò tá, ắt là ta đã ở giặc bắt rồi. Nay quân sĩ không còn một mạng, cả khanh đều thương tích đầy mình, nếu giặc đuổi theo kịp biết liệu làm sao?
Mạc Thiên Tứ nói:
- Ở phía trước có một hòn đào tên là đảo Côn Lôn, ta nên ghé thuyền vào đảo ấy lánh nạn, kẻ lênh đênh giữa biển dễ bị giặc nhìn thấy.
Phúc Ánh khen phải liền ghé vào đào Côn Lôn. Đến nơi ai này đều đói bụng cồn cào. Lê Văn Quân nói:
- Lúc hỗn loạn ở đảo Phú Quốc, ta lên nhằm chiếc thuyền không có lương thực. Giờ biết lấy gì lót dạ?
Ánh nói:
- Trên thuyền có một con ngựa hãy giết thịt mà ăn.
Lê Văn Quân hỏi:
- Con ngựa này để cho chúa đi lại đỡ chân, nay giết đi thì làm thế nào?
Trương Tấn Bửu nói:
- Lần trước dẫn chúa đi trốn tôi có hái trái bần cho chúa đừng qua bữa. Vậy để tôi đi tìm xem trên đảo này có trái bần chăng?
Ánh nhíu mày bảo Trương Tấn Bửu:
- Ta đã bảo khanh không được gọi là trái bần. Hãy gọi là trái Thuỷ Liễu, khanh đã quên rồi sao?
Trương Tấn Bửu tạ tội rồi vội vã đi ngay. Lê Văn Quân hỏi Phục Ánh:
- Thưa, sao trái bần lại gọi là trái Thuỷ Liễu?
Ánh cương quyết đáp:
- Nhà Nguyễn ta làm chúa thiên hạ đã gần hai trăm năm này, ăn thiếu gì cao lương mỹ vị, nay vì gặp nạn mới ăn đến quả này, gọi tên bần nghe hèn quá nên ta mới đổi tên là trái Thuỷ Liễu.
Lê Văn Quân vô tình hỏi:
- Nếu Chúa thượng đổi tên như vậy e Trương Tấn Bửu ngại rằng Chúa trọng phú, khinh bần mà không hết lòng phò tá chăng?
Ánh phật ý hỏi lại Lê Văn Quân:
- Ý ngươi muốn bảo ta là người tham sang phụ khó chứ gì?
Quân vội vàng tạ lỗi nói:
- Hạ thần vì lo cho chúa thượng, nói thành thực lỡ lời chứ không có ý gì khác. Xin Chúa thượng tha tội.
Ánh cau mày xua tay ra hiệu cho Quân lui ra. Một lúc sau Bửu quay lại nói:
- Thưa Chúa thượng, trên đảo này không có cây Thuỷ Liễu.
Ánh bảo:
- Thôi đành làm thịt ngựa ăn tạm vậy!
Phúc Ánh cũng mẹ, vợ con, em gái và các tướng ăn xong người hầu lại tâu:
- Thưa Chúa thượng, trên thuyền không còn nước uống.
Lê Văn Quân nói:
- Chúa thượng hãy nghỉ tạm dưới bóng cây cùng quốc mẫu và gia quyến, chúng thần chia nhau mỗi người một ngả đi tìm xem trên đảo này có nước uống chăng.
Nói rồi các tướng và bọn hầu cận liền đi ngay.
Một hồi lâu tên hầu quay về mừng rỡ tâu:
- Thưa Chúa thượng, trên tảng đá đằng kia có một hồ nước cạn, nước trong vắt, tiểu nhân múc về dâng Chúa thượng.
Phúc Ánh liền cùng mẹ, em và vợ con chia nhau uống ngay. Uống xong Ánh bảo:
- Ngươi hãy đem ta đến hồ nước ấy xem sao!
Tên hầu nói:
- Ngựa đã giết thịt rồi, chân chúa lại bị đau, tiểu nhan xin cõng Chúa thượng đến nơi ấy.
Tên hầu vất vả cõng Phúc Ánh đến hồ nước. Nhìn hồ nước vừa bằng miệng chậu, nước trong leo lẻo. Ánh bảo:
- Ngươi hãy tát nước trong hồ ra ngoài xem sao.
Tên hầu vâng lời, khom mình dùng nón mà tát.
Nước mạch từ trong đã tuôn ra hoài, tát mãi vẫn không cạn. Ánh lại bảo:
- Ngươi mau đi tìm một hòn đã vừa miệng hố đậy lên hố nước cho ta.
Tên hầu vâng lệnh làm theo lời Ánh bảo. Xong việc tên quân hỏi:
- Xin hỏi Chúa thượng sai tiểu nhân làm thế là có dụng ý gì chăng?
Ánh cười đáp:
- Ngươi theo hầu ta đã lâu, âu cũng là người tâm phúc, nên ta cũng không ngại nói cho ngươi hay. Nay quân ta thực là sức cùng lực kiết e rằng các tướng nản chí mà không hết lòng phò tá. Nay ta định là như vậy... như vậy..., các tướng ắt tin ta có chân mệnh đế vương, tất một dạ tôn thờ.
Tên hầu kính cẩn khen:
- Chúa thượng thật là anh minh xưa nay hiếm có.
Chợt Ánh bảo:
- Nhưng nếu việc này tiết lộ thì ta làm trò cười cho thiên hạ sao.
Tên hầu sợ hãi nói:
- Việc này chỉ có Chúa thượng và tiểu nhân biết. Chúa tôi ta không nói ra thì sao tiết lộ được.
Ánh trầm ngâm bảo:
- Lấy gì làm chắc rằng ngươi sẽ không nói ra? Chỉ có mình ta biết mới bảo toàn bí mật được mà thôi!
Nói xong Ánh rút gươm chém tên hầu. Tên này sợ hãi lui ra bị mũi gươm chạm xả ngực loạng choạng trượt chân mép vực té nhào xuống biển.
Nguyễn Phúc Ánh an tâm đi về chỗ cũ. Đến nơi các tướng cũng vừa tới, Lê Văn Quân buồn rầu tâu:
- Thưa Chúa thượng, chúng thần đã tìm khắp đảo không thấy nơi nào có nước ngọt cả.
Phúc Ánh chị tay bảo:
- Các tướng hay theo ta đến tảng đá cao đằng kia quan sát xem, nếu không thấy thuyền giặc thì lập tức lên thuyền đi nơi khác tìm nước uống.
Khi đến tảng đá ấy, nhìn ra biển thấy thuyền quân Tây Sơn thấp thoáng ngoài khơi xa, Ánh quỳ xuống ngửa mặt lên trời khấn:
- Nếu trời chưa diệt dòng họ Nguyễn, thì xin cho tôi đâm mũi kiếm xuống tảng đá này sẽ có nước ngọt mà uống. Bằng không chúa tôi ta đánh chết khát nơi đây.
Khấn rồi đứng lên rút gươm nhằm mép hòn đá dày trên hồ nước mà đám xuống. Ánh rút gươm lên thấy mũi gươm có nước, Ánh và mừng rỡ réo lên:
- Mau cậy tảng đá này lên ắt là có nước uống.
Các tướng cùng nhau cây tảng đá lên, quả nhiên thấy cái hố vừa bằng miệng chậu, nước trong leo lẻo. Mọi người liền lấy tay vốc nước mà uống. Uống xong các tướng quỳ xuống lậy Phúc Ánh và đồng thanh nói:
- Chúa thiêng thật là có chân mệnh Đế vương nên trời ban cho nước uống. Vậy nghiệp cả ắt thành.
***
Nói về Trương Văn Đa đem chiến thuyền đuổi theo Phúc Ánh, nhưng không thấy thuyền Phúc Ánh đâu cả bên sai quân do thám khắp nơi. Hôm ở Trương Văn Đa đi thuyền đến gần đảo Côn Lôn bỗng thấy một người ôm khúc cây to lênh đênh trên biển, Đa bèn sai quân vớt người ấy lên. Cứu chữa cho người ấy xong Văn Đa hỏi:
- Ta xem ý phục của ngươi đúng là quân của Nguyễn Phúc Ánh. Phúc Ánh ở đâu, sao người một mình trời đất giữa biển, trên mình lại mang thương tích là vì đâu?
Người ấy khóc đáp:
- Tôi thật là người hầu của chúa Nguyễn vương. Chúa tôi trốn lên đảo Côn Lôn, không còn nước uống, tôi tìm được một hố nước đem về dâng Nguyễn vương uống. Chẳng ngờ Nguyễn Vương lại muốn giết tôi. May tôi trượt chân nơi mép vực rơi xuống biển lại vớ được cây to lênh đênh giữa biển, nhờ tướng quân cưu mang.
Văn Đa ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao Phúc Ánh lại toan giết người?
Tên quân kể lại mưu của Phúc Ánh, Đa nghe xong trợn mắt quát:
- Thật là loại độc ác sâu hiểm, bội nghĩa vong ơn. Lần này ta vây đảo Côn Lôn bắt nó, xem có trời nào cứu nó được chăng?
Nói rồi Văn Đa đem toàn chiến thuyền tiến đến chia nhau vây kín đảo. Quân Tây Sơn dùng thuyền nhỏ sắp sửa đổ bộ vào đảo, các tướng Nguyễn trên đảo trông thấy đều đưa mắt nhìn nhau. Phúc Ánh thất kinh nói:
- Trời vừa cho nước uống cứu ta lẽ nào bây giờ trời lại bỏ ta sao?
Ánh vừa dứt lời trời đang nắng to bỗng mây đến vần vũ, mưa tuôn như trút, giông to nổi lên. Trương Văn Đa kinh hãi lệnh quân dẫn thuyền về phía kín gió mà núp bão. Đến lúc gió lặng bão tan, chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh thấy chiến thuyền quân Tây Sơn dồn về một phía, bèn xuống thuyền phía không có quân Tây Sơn vây chạy trốn. Khi ấy thuyền nhỏ quân Tây Sơn đều bị sóng đánh đắm cả, chỉ còn lại hai mươi đại thuyền và một ngàn quân. Trương Văn Đa bèn đem đoàn quân trở về thành Trường Đồn ra mắt Nguyễn Huệ kẻ rõ sự tình. Nghe xong Huệ thở dài nói:
- Lần trước Phúc Ánh bị Bùi Thị Xuân truy đuổi ở cửa biển Hàm Luông cũng nhờ bão mà thoát nạn, lần này cũng thế. Con người Phúc Ánh thật tiểu nhân đê tiện sao trời lại giúp cho nó thế.
Nói xong Huệ lệnh toàn quân theo hai đường thuỷ bộ rút về thành Sài Côn. Đến nơi Huệ họp các tướng nói:
- Ta phải rút binh về Quy Nhơn đề phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc. Nay phong Trương Văn Đa làm chánh tướng, Đặng Văn Long làm phó tướng cùng nhau trấn thủ đất Gia Định. Hai tướng nên dùng lễ mà đãi kẻ sĩ, dùng ân đức mà trị dân, đồng thời gắng dò thêm Phúc Ánh lẩn trốn nơi đâu, để quân bắt giết tiệt trừ hậu hoạ, như vậy mới có thể bình được đất Gia Định.
Trương Văn Đa bước ra nói:
- Đặng tướng quân văn võ gồm đủ, trí dũng song toàn tôi không sánh được, nên đám đâu nhận là chánh tướng.
Nguyễn Huệ nói:
- Văn Đa là người biết nghe lời nói phải, tánh lễ phép khiêm cung, biết kính trên nhường dưới nên ta mới để Đa làm chánh tướng. Văn Long là người vì dân vì nước không màng danh lợi chẳng tranh công quyền, nên ta mới để Văn Long làm phó tướng trợ giúp Văn Đa thì mọi việc sẽ vẹn toàn.
Văn Đa lại tâu:
- Thưa thúc phụ, cháu đang là phò mã, đối với Phụ hoàng và thúc phụ là tinh nhà. Nay không có tài mà thúc phụ cho ở địa vị cao, hoá ra thúc phụ mang tiếng là thiên vị ư? Như thế lòng người sao phục?
Văn Long xen vào nói:
- Trường tướng quân nói thế là còn ngại Văn Long này ư? Những lời tướng quân vừa nói thật là của người đức độ đáng làm Văn Long tôi kính phục lắm thay.
Nguyễn Huệ bảo:
- Việc chánh phó là việc nhỏ, việc nước dân là việc lớn. Hai người lòng chỉ lo việc lớn mà quên việc nhỏ thường tình ta thật là an tâm lắm. Vả lại ấy là việc của đại huynh dặn dò ta lúc xuất binh vào Gia Định, Văn Đa chớ có kháng lệnh.
Trương Văn Đa nghe vậy, bấy giờ mới chịu lui ra.
Mùa hè năm Quý Mão (1783) niên hiệu Thái Đức thứ sáu. Nguyễn Huệ để Trương Văn Đa và Đặng Văn Long trấn thủ Gia Định, rồi rút đại binh về Quy Nhơn..

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 31

Cậy thế Tiêm La, Chu Văn Tiếp báo thù mà bỏ mạng.
Mượn oai Long Nhương, Đặng Văn Long doạ giặc để cứu dân.



Nói về Nguyễn Phúc Ánh, nhờ bão chạy thoát khỏi tay tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa ở đảo Côn Lôn, đang lênh đênh giữa biển bỗng thấy một chiếc tàu lớn tiến lại gần. Hoá ra đó là thuyền của giáo sĩ Bá Đa Lộc. Bá Đa Lộc đem chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh lên tàu xong, nói:
- Từ ngày thoát khỏi tay con nữ tặc Bùi Thị Xuân ở Thất Kỳ Giang, thấy quân Tây Sơn mạnh quá ta bèn chạy về nước cầu cứu vua nước tôi giúp chúa khôi phục cơ đồ. Xin chúa hãy về đất liền ta sẽ bàn kỹ việc này.
Phúc Ánh bảo:
- Từ ngày chia tay với giáo sĩ ta phải chạy trốn ra đảo Côn Lôn gian nan cực khổ trăm bề. Sau Nguyễn Huệ rút binh về Quy Nhơn, nhờ các tướng dấy binh lấy lại đất Gia Định. Nào ngờ Nguyễn Huệ lại dẫn đại binh vào đánh quân ta tan tác cả. Nay ta không một mảnh đất dung thân biết phải về đâu?
Mạc Thiên Tứ nói:
- Trương Văn Đa bỏ đảo Phú Quốc đuổi theo ta đến đảo Côn Lôn. Vậy ta lại chạy về Phú Quốc ắt an toàn.
Bá Đa Lộc khen phải, cho tàu cập bến đảo Phú Quốc. Đến nơi tìm hang đá tạm trú xong, Ánh hỏi Bá Đa Lộc:
- Giáo sĩ cầu cứu vua nước ngài thế nào? Xin ngài mau phân tỏ.
Bá Đa Lộc đáp:
- Vua nước tôi đồng ý giúp chúa tàu đồng, súng ống lương thực và binh sĩ. Những khi lấy được nước rồi chúa phải để phố Hội An cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn được thuộc quyền cai trị của nước tôi, và chỉ cho người của nước tôi được độc quyền buôn bán và truyền đạo trên đất An Nam. Chẳng hay ý chúa thể nào?
Phước Ánh cả mừng đáp:
- Nếu lấy lại được nước đã mất, bấy nhiêu ấy nào có nghĩa gì? Ta xin viết giấy làm bằng nhờ giáo sĩ về tâu cùng vua của ngài mau đem binh sang giúp.
Phúc Ánh viết xong trao cho Bá Đa Lộc. Lộc lại nói:
- Đành rằng lòng chúa ngay thực, nhưng e vua tôi ngài rằng khi lấy lại nước rồi chưa nuốt lời thì là thế nào?
Ánh suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
- Nay ta đã mất tất cả lấy gì cho vua của ngài là tin được! Hoạ chăng ta chỉ có một đứa con duy nhất lá Thế tử Cảnh mới vừa bốn tuổi. Nay ta cho Thế tử Cảnh sang ở với vua nước ngài để làm con tin. Vậy có được chăng?
Bá Đa Lộc cả mừng nói:
- Nếu được vậy vua tôi nhất định cho quân sang giúp.
Ánh năm tay Lộc bảo:
- Vậy ngài hay ra tàu nghỉ ngơi rồi định ngày về nước, tâu cùng vua nước ngài. Ta sẽ sửa soạn cho Thế tử Cảnh theo ngài sang nước Pháp Lang Sa.
Bá Đa Lộc đi rồi, Lê Văn Quân quỳ tâu:
- Thần xem Bá Đa Lộc không phải là người tốt, Chúa thượng nên khá đề phòng!
Ánh phật ý hỏi:
- Giáo sĩ Bá Đa Lộc sang nước ta giảng truyền đạo giáo, vì thương ta bị giặc Tây Sơn cướp nước, nên mới lặn lội thỉnh cầu vua nước Pháp Lang Sa sang giúp sao người lại bảo ông ấy không phải là người tốt?
Lê Văn Quân đáp:
- Thần thấy có hai điều đáng ngờ. Một là nếu Bá Đa Lộc không có lệnh của vua nước Pháp Lang Sa sao dám tự quyền đặt điều kiện trao đổi đất đai với ta? Hai là nếu Bá Đa Lộc chỉ vào Gia Định giảng truyền đạo giáo sao biết được phố Hội An và Đà Nẵng là nơi giàu có sầm uất nhất ở Đàng Trong mà đặt điều đánh đổi. Chính vì vậy mà thần ngờ rằng Bá Đa Lộc được lệnh vua nước Pháp Lang Sa cố ý dòm ngó nước ta.
Ánh nghiêm giọng hỏi:
- Nếu vậy thật thì sao?
Lê Văn Quân đáp:
- Xin chúa nói với Bá Đa Lộc rằng sau khi lấy lại nước, ta sẽ trả bằng vàng ngọc châu báu chứ đừng đánh đổi đất đai.
Ánh nén giận hỏi:
- Ngỡ như họ không chấp thuận thì sao?
Văn Quân nhẫn nại đáp:
- Thì ta tự lo lấy việc nước, không cần phải nhờ viện binh của họ.
Ánh gằn giọng rằng:
- Tự lo lấy làm sao! Nguyễn Huệ đã ba lần vào đánh Gia Định, hai chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương phải chết. Ta ba lần trốn chui trốn nhủi hết nơi này sang nơi khác, còn các tướng phải bỏ thành mà chạy thoát thân. Văn thì Ngô Tùng Châu và Gia Định Tam Gia còn lẩn trốn ở Hà Tiên. Võ thì Nguyễn Huỳnh Đức là một trong Gia Định Tam Hùng bị Tây Sơn bắt sống, Ta thì cơm không có ăn, nước không có uống, may nhờ bão đánh đắm thuyền giặc hai lần mà thoát chết. Còn người đã có kế sách gì phá giặc hay chưa mà bảo rằng tự lo lấy?
Lê Văn Quân thấy chúa giận nhưng gắng gượng quỳ tâu:
- Thưa, Chúa thượng có chân mệnh Đế vương. Ở đảo Côn Lôn không có nước uống chúa cầu nước, trời liền cho nước, ấy là điềm được nước. Giặc đến đánh trời làm bão nhấn chìm thuyền. Lòng trời đã giúp chúa như thế, trước sau gì cũng lấy lại nước Nếu bây giờ đổi đất lấy viện binh Pháp Lang Sa, e người sau đàm tiếu rằng chúa tôi ta bán nước cầu vinh. Xin Chúa thượng xét lại.
Phúc Ánh xua tay bảo:
- Ngươi hãy ra ngoài cho ta suy nghĩ lại.
Lê Văn Quân đi rồi Ánh nghĩ thầm rằng: Thằng tướng già này lúc ở đảo Côn Lôn ta đặt tên trái bần là trái Thuỷ Liễu, thì bảo ta là tham vọng phụ phó. Nay ở đảo Phú Quốc lại bảo ta là bán nước cầu vinh, thật là quá quắt. Nếu ta không đang cần người phò tá nhất định giết chết không tha.
Vừa lúc ấy lại có quân vào báo rằng:
- Kính Chúa thượng, tướng quân Chu Văn Tiếp sau khi thua trận ở Thất Kỳ Giang chạy sang nước Tiêm La, nay Chu tướng quân sai người về nước tìm Chúa thượng dâng mật thư.
Phúc Ánh tiếp thư, xem xong bảo quân:
- Hãy mau đi mời Bá Đa Lộc đến chỗ ta bàn việc.
Bá Đa Lộc đến, Ánh hỏi:
- Nay một viên tướng của ta là Chu Văn Tiếp chạy sang Tiêm La cầu viện. Vua Tiêm La đã đồng ý cho quân sang giúp. Ta nghĩ đường về nước ngài xa xôi cách trở, mà nước Tiêm La lại ở gần bên, nên ta định sang gặp vua Tiêm La cầu viện trước để sớm dẹp giặc Tây Sơn khôi phục cơ đồ. Nếu việc không thành sẽ nhờ đến ngài, chẳng hay ý ngài thế nào?
Bá Đa Lộc đáp:
- Vậy xin Chúa thượng hãy kịp đi ngay. Tôi cùng theo chúa sang Tiêm La, xin vua Tiêm La cho lập giáo sớ để truyền đạo. Một là vì đất Gia Định đã bị quân Tây Sơn chiếm, tôi vì giúp chúa nên có thù với họ không thể đến nơi ấy được, hai là được ở gần chúa, nếu việc cầu viện vua Tiêm không thành, tôi sẽ lên đường về Pháp quốc cầu viện vua tôi.
Nói xong chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh và giáo sĩ Bá Đa Lộc xuống thuyền sang nước Tiêm La, đến kinh đô Vọng Các (Băng Cốc) Tiêm vương được tin sai người đi đón, rồi mời Phúc Ánh vào nội điện bày yến tiệc khoản đãi. Bỗng Chu Văn Tiếp ở ngoài chạy vào ôm chân Phúc Ánh mà khóc. Ánh động lòng ứa nước mắt, Tiếp vừa khóc vua nói:
- Thần được Chúa thượng trọng dụng phông là Bình Tây đại Đô đốc lại không chống nổi giặc, để nỗi chúa tôi mọi người thất lạc một nơi, ấy là tội của thần. Nhà thần có bốn anh em theo phò tá chúa, nay ba người đều bị giặc Tây Sơn đánh chết, Chúa thượng hãy cầu viện binh của Tiêm vương, thần xin đem ta quân đi trước. Trước là trả nợ nước sau là báo thù nhà cho tỏ chí khí của người trung nghĩa trượng phu.
Phúc Ánh đỡ Văn Tiếp dậy nói:
- Ta nhận được mật thư của khanh sang đây cũng vì việc ấy.
Tiêm vương thấy chúa tôi Phúc Ánh ôm nhau khóc, động lòng liền thuận ý viện binh.
Tiêm vương sai Chiêu Tăng làm đại tướng quân, Chiêu Sương làm tiên phong thống lĩnh ba vạn thuỷ quân và trăm chiến thuyền. Đạo quân này do Nguyễn Phúc Ánh và Chu Văn Tiếp đem một ngàn quân đích thân dẫn đường. Tiêm vương lại sai Sa Uyển và Lục Côn đem hai vạn quân bộ thẳng đường sang Chân Lạp họp với tướng Chân Lạp là Chiêu Thuỷ Biện rồi cùng tiến sang đường Châu Đốc đánh nước An Nam.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 31(tt)



Mùa hạ năm Giáp Thìn (1784) niên hiệu Thái Đức thứ bảy, quân Tiêm La thuỷ bộ gồm năm vạn rầm rộ tiến sang làm cỏ đất Gia Định.
Lúc ấy ở thành Sài Côn, Trương Văn Đa nhắn tin cấp báo liền hỏi Đặng Văn Long:
- Nay quân Tiêm La năm vạn do Phúc Ánh đương hùng hổ tiến sang xâm lược nước ta. Theo tướng quân nên tiến thủ thế nào?
Long đáp:
- Hiện thành Sài Côn ta có năm ngàn quân, còn lại đều chia nhau giữ các nơi hiểm yếu ở Trường Đồn, Hà Tiên, Châu Đốc. Tính cả thẩy không đầy một vạn, e không thể nào chặn giặc ở biên cương được!
Trương Văn Đa hỏi:
- Trước khi về Quy Nhơn, thúc phụ có dặn rằng: Sông Tiền Giang là ranh giới, thành Trường Đồn là cửa ngõ của hai dinh Long Hồ và Phiên Trấn. Ý tướng quân muốn bảo rằng nên bỏ dinh Long Hổ hợp binh về cố thủ Trường Đồn để giữ Phiên Trấn, Sài Côn chăng?
Đặng Văn Long đáp:
- Trường tướng quân thật là tuổi trẻ tái cao. Ý của tôi chính là như vậy.
Nói rồi Đặng Văn Long và Trương Văn Đa vào Trường Đồn lập đón luỹ canh phòng cẩn mật, động thời sai quân mang lệnh cho quân các trấn Châu Đốc, Hà Tiên, Trấn Giang (Cần Thơ), Ba Thắt kíp bảo toàn lực lượng đem quân về hội ở Trường Đồn (Mỹ Tho). Nói về thuỷ, quân Tiêm La tiến đến đâu quân Tây Sơn lui đến đấy. Tiến một mạch đến Đông Khẩu gặp lúc trời tối liền dừng quân đóng trại. Trong đại bản doanh Chiêu Tăng tự đắc nói với chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh:
- Tôi nghe chúa Nguyễn vương nói rằng quân ta rất mạnh, thế mà quân ta tiến sang giặc chỉ lui mà không dám đánh, chẳng mấy chốc đã chiếm hết cả một vùng đất rộng lớn từ sông Tiền Giang trở vào. Chẳng qua là do chúa tôi Nguyễn vương không có người tài mà thôi chứ quân Tây Sơn đối với quân Tiêm ta thật là hữ danh vô thực.
Nói xong cả cười. Phúc Ánh can:
- Xin tướng quân đừng nên khinh địch. Ngươi Huệ đã đem đại binh về Quy Nhơn, chỉ để Trương Văn Đa và Đặng Văn Long trấn thủ đất Gia Định, quân chưa đầy một vạn nên Đặng Văn Long mới đổ quân cố thủ Trường Đồn chặn đường tiến quân của ta về Sài Côn. Ấy là quân Tây Sơn đã có kế sách phòng thủ để chờ Nguyễn Huệ đem đại binh vào rồi phản công lại ta. Vậy tướng quân nên kịp phá giặc Trường Đồn. Ta chiếm được Trường Đồn coi như đã chiếm xong toàn cõi Gia Định. Xin tướng quân hãy khá tiến binh.
Chiêu Tăng cười lớn nói:
- Nguyễn Huệ tài cán gì mà xem ra chúa sợ Huệ đến thế, hãy thư thả cho quân ta nghỉ ngơi dưỡng sức, chờ Nguyễn Huệ từ Quy Nhơn kéo vào bây giờ ta mới tiến đánh bắt hết cả, khỏi phải nhiều lần nhọc sức, thế chẳng hơn sao.
Chúa tôi Phúc Ánh thấy Chiêu Tăng không nghe lời mình, đành về doanh trại chờ quân Tiêm La muốn đánh lúc nào thì đánh chứ chẳng biết phải làm sao. Chiêu Tăng, Chiêu Sương thả quân hãm hiếp đàn bà con gái, cướp bóc vơ vét của cải dân lành, dân chúng phải bỏ làng mạc trốn vào bưng biền rừng rậm, tiếng oán thán vang dậy đất trời. Nguyễn Phúc Ánh nghe tin ấy liền sang doanh trại Chiêu Tăng nói:
- Thưa tướng quân, lẽ được thua là cốt ở lòng dân. Quân ta chỉ tiến một mạch chiếm được nửa đất Gia Định, quân Tây Sơn chỉ lui mà không dám phục binh chặn đường tiến binh của ta, vì sợ rằng nếu phục binh sẽ bị nhân dân tố giác. Nay tướng quân thả binh sĩ cướp bóc của dân, trong thì quân khinh nhờn binh pháp, ngoài thì trăm họ oán ghét, làm sao mà thắng giặc cho được. Xin tướng quân xét lại.
Chiêu Tăng bảo:
- Vậy tôi hỏi chúa, vua tôi sai tôi kéo năm vạn binh sang đây biết bao nhiêu là nhân mã, khí giới quân lương để được cái gì? Nếu chỉ để đưa chúa lên ngai vàng mà thôi, thì ai làm vua ở nước Nam này chẳng được, việc gì mà nước tôi phải nhọc sức? Binh pháp có nói làm tướng giỏi thưởng phạt phải nghiêm minh. Nay binh sĩ có công mà không thưởng thì sao cho họ hết lòng đánh giặc. Nếu không để quân ta cướp của dân, vậy nhà chúa lấy gì để nuôi quân và thường cho binh sĩ của ta đây.
Phúc Ánh nghe Chiêu Tăng nói càn như thế, đánh bấm bụng ra về than cùng các tướng:
- Quân Tiêm La ngày càng tàn ác, e rằng mà lòng dân thật bất lợi cho ta!
Lúc Nguyễn Phúc Ánh dẫn quân Tiêm La về nước, Ngô Tùng Châu và Gia Định Tam Gia là Ngô Nhơn Tĩnh, Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định kéo đến theo phò. Nghe Phúc Ánh than thở, Ngô Tùng Châu bước ra thưa rằng:
- Nhân dân Gia Định vẫn một lòng chung với chúa. Cướp bóc của nhân dân là tội của quân Tiêm La, trăm họ có oán là oán quân Tiêm La cớ gì oán chúa được.
Lê Văn Quân bàn:
- Nếu ta cứ lệ thuộc quân Tiêm mãi ắt họ muốn làm gì thì làm. Nay quân của ta mộ được đã đến hai ngàn người, vậy thần xin đem thuỷ binh tiến đánh Trường Đồn, ắt Chiêu Tăng sẽ cho quân theo giúp, nhờ vậy mà quân Tiêm sẽ không được rảnh rang cướp bọc của nhân dân.
Ngô Tùng Châu hỏi:
- Hiện quân Tiêm La đang ham lợi mà quên nghĩa vụ lân bang. Vậy lấy gì làm chắc rằng họ sẽ cho quân theo giúp? Nếu họ không giúp thì hai ngàn quân của ta đi đánh Trường Đồn khác gì lấy trứng mà chọi đá. Nếu họ không giúp, ta lại không dám tiến quân Chiêu Tăng lại cười ta là nói khoác mà thôi.
Lê Văn Quân ung dung nói:
- Xin Chúa thượng hay sai người sang nói với Chiêu Tăng rằng ngày mai quân ta sẽ tiến về Trường Đồn đánh Tây Sơn. Nếu Chiêu Tăng không cử tướng theo giúp, Lê Văn Quân xin dâng đầu trước án.
Nguyễn Phúc Ánh nghĩ thầm rằng: Lê Văn Quân một lần bảo ta tham sang phụ khó, một lần bảo ta bán nước cầu vinh, ta đang muốn giết đi mà không có cớ gì. Nay ta nghe theo kế của nó, nếu đúng như thế thì ta đỡ mang tiếng với dân. Nhược bằng không thì ta đã giết được nó vậy. Nghĩ xong Ánh cả mừng nói:
- Được! Cứ ý theo lời Văn Quân mà làm. Nếu Chiêu Tăng không giúp, ta tất không thể tiến binh thì ta kẻ tội tướng quân tự ý làm để quân Tiếp không cười ta được. Khi ấy tướng quân có chết cũng đừng oán ta đấy nhé!
Lê Văn Quân đáp:
- Phận làm tôi tận trung vì chúa, chẳng dám oán hờn.
Nguyễn Phúc Ánh liền viết thư sai người sang doanh trại quân Tiêm báo cho Chiêu Tăng biết ngày mai sẽ xuất binh. Chiêu Sương bàn với Chiêu Tăng:
- Nay chúa tôi Nguyễn vương nóng lòng xuất binh, ngày mai họ tiến đánh Trường Đồn. Nguyễn Vương chỉ cơ hai ngàn quân trong tay, nếu để họ thua quân Tây Sơn mà chết hết thì lấy ai làm hướng đạo cho ta. Sau đó nếu quân Tây Sơn lại tiến đánh ta, ta không rành địa hình thì biết tiến thủ thế nào?
Chiêu Tăng cười bảo:
- Phúc Ánh chỉ giả vờ làm thế để buộc ta phải tiến đánh mà thôi, chứ làm gì dám mạo muội xua quân. Ta cứ án binh bất động cướp của chở về nước, xem thử ngày mai Phúc Ánh có dám tiến quân chăng?
Chiêu Tăng nói:
- Hiện vùng đất từ sông Tiền Giang trở vào quân ta vơ vét của cải chở về nước cũng đã hết. Vả lại Phúc Ánh vì sợ mang tiếng với dân e cùng đường liều lĩnh. Nếu chúa tôi Phúc Ánh chết cả thì ta không người hướng đạo cũng thật bất lợi. Vậy ngày mai tôi xin đem quân giúp Nguyễn vương tiến đánh Tây Sơn. Chiếm được đất mới ta có lợi mới, lại có ân với chúa tôi họ, chẳng phải là nhất cử, lưỡng tiện hay sao?
Chiêu Tăng khen phải, liền sai người sang báo cho Phúc Ánh ngày mai hội quân tiến đánh Tây Sơn.
Được tin, Phúc Ánh liền từ tay rót rượu thưởng Lê Văn Quân. Ánh nói:
- Lê tướng quân đám lấy cái chết bảo đảm bày kế hay cho chúa. Ly rượu này thưởng cho lòng trung của tướng quân.
Lê Văn Quân bưng rượu uống cạn. Ánh rót ly thứ hai nói:
- Ly rượu này thưởng cho tướng quân bày điệu kế khiến Chiêu Tăng phải chịu xuất binh đánh Tây Sơn.
Lê Văn Quân liền uống cạn. Ánh rót ly thứ ba nói:
- Nhờ kế của tướng quân nên muôn dân thoát cảnh bị quân Tiêm cướp bóc. Ly rượu nay ta thây mặt bá tánh cảm tạ Lê tướng quân.
Lê Văn Quân cần nốt ly thứ ba. Ánh lại truyền:
- Nay ta phong Chu Văn Tiếp làm Bình Tây đại Đô đốc, Lê Văn Quân làm phó tướng, chuẩn bị ngày mai hợp quân cùng Chiêu Tăng phá giặc.
Lúc bây giờ có một tên quân Nguyễn quê quán ở Hà Tiên bị quân Tiêm là hãm hiếp vợ mình đến chết nên đem lòng oán hận. Nhân biết được việc liên minh Tiêm, Nguyễn chuẩn bị đánh Tây Sơn, trong đem ấy tên quân bèn trốn sang doanh trại Tây Sơn ở đồn Trà Tân cách thành Trường Đồn hai mươi dặm bẩm báo.
Lúc ấy Đặng Văn Long và Trương Văn Đa đang thị sát đồn Trà Tân. Hay tin ấy Đặng Văn Long nói với Văn Đa:
- Tướng quân hãy sai Đô uý Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn cấp báo cùng Hoàng thượng xin viện binh. Tôi và ông đem quân mai phục ở rách Mân Thít chờ giặc đến đó ra mà đánh để làm tiêu hao lực lượng và chặn đường tiến quân của địch.
Trương Văn Đa liền viết mật thư sai Đô uý Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn cấp báo, Đặng Văn Trấn nói:
- Tôi thân làm tướng ngoài biên ải giặc đến chưa kịp đánh đã được lệnh tướng quân rút một mạch về đây. Nay hai tướng đã đến những tưởng được ra trận đánh giặc cứu dân bảo quốc, nào ngờ lại bị sai về Quy Nhơn đưa thư. Việc đưa thư thì thiếu chi người sao là sai tôi?
Văn Đa an ủi Đặng Văn Trấn rằng:
- Ta thưa biết lòng trung dũng của Đô uý cũng như toàn quân ta trước cảnh non sông đang bị giặc xăm lăng tàn phá. Nhưng ngoài việc đưa thư Đô uý còn phải trình bày tình hình chiến sĩ của quân ta và quân địch ở Gia Định. Nếu không phải Đô uý thì ai làm được việc này. Đại Long Nhương tướng quân kéo đại binh vào đây ông đi theo đánh giặc Tiêm nào có muộn gì?
Đặng Văn Trấn nghe xong vỡ lẽ liền lãnh thư đi ngay. Trong đem ấy Đặng Văn Long và Trương Văn Đa đem chiến thuyền mai phục ở các rạch nhỏ trên sông Mân Thít chờ quân Tiêm - Nguyễn.
Nói về quân Nguyễn do Chu Văn Tiếp và Lê Văn Quân thống lĩnh, được tướng Ngm là Thát Si Đa đem năm ngàn quân và năm mươi chiến thuyền đi sau phô trương thanh thế, liên quân Tiêm - Nguyễn ào ạt theo sông Tiền Giang tiến xuống. Vừa đến sống Mân Thít bỗng nghe pháo lệnh nổ vang, quân Tây Sơn dùng thuyền nhỏ xông ra. Bên phải Trương Văn Đa thống lĩnh, bên trái Đặng Văn Long chỉ huy đổ ra đánh rất hăng, tướng Tiêm La là Thát Si Đa trong thấy liền nói với tả hữu:
- Cứ để hai bên đánh nhau, đợi Tây Sơn để thuyền lớn xung trận bây giờ ta sẽ tiến binh.
Nói xong Thát Si Đa truyền quân dừng thuyền ở ngoài xa thị chiến. Khi ấy tướng Nguyễn là Chu Văn Tiếp nói với Lê Văn Quân:
- Ta đã lọt vào trận mai phục của giặc Tây Sơn, tôi và ông chia quân làm hai cánh chống đỡ. Lát nữa quân Tiêm trợ chiến ắt giặc phải tan.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 31(tt)



Nói rồi Lê Văn Quân đón đánh Đặng Văn Long, Chu Văn Tiếp chặn Trương Văn Đa cự chiến. Hai bên đánh nhau dữ dội, quân Nguyễn thúc quân khua chiêng, quân Tây Sơn đốc binh nổi trống tiếng hò reo rền trời. Chu Văn Tiếp thấy tướng Tây Sơn là phò mã Trương Văn Đa tuổi còn rất trẻ mặt trắng môi son nghĩ thầm rằng, tháng con nít này thúc quân đánh hăng quá, nếu ta không giết nó e binh ta phải bại trận. Nghĩ xong bèn tiến lên áp sát thuyền Trương Văn Đa. Trương Văn Đa trông thấy thuyền quân Nguyễn có đề bốn chữ "Lương sơn tá quốc" lại có dải kỳ đề "Bình Tây đại Đô đốc", Đa nghĩ thầm rằng, ta nghe nói Chu Văn Tiếp khởi binh ở núi Trà Lương nên trương cờ "Lương sơn tá quốc". Tá quốc sao con rước giặc Tiêm La về giầy xéo non sông. Quân Tiêm La sang tàn hại dân ta, cũng do thằng bất tài tham công này gây ra. Phen nay ta quyết giết chết nó trừ hại cho dân. Nghĩ xong chờ thuyền Chu Văn Tiếp gần, Đa quát hỏi:
- Thằng giặc kia, mí có phải là Chu Văn Tiếp đó chăng?
Tiếp trấn mặt hét:
- Thằng con nít kia đã biết oai ta sao không xưng danh rồi chịu chết.
Đã nạt:
- Xưng danh với thằng cầu viện ngoại bang buôn dân bán nước như ngươi ta thật lấy làm xấu hổ. Nhưng ta e rằng lát nữa chết đi xuống âm phủ gặp anh em ngươi hỏi ngươi bị ai giết lại không biết đường trả lời thì cũng tội cho ngươi. Hay lắng tai mà nghe cho rõ, ta là Tây Sơn phò mã Trương Văn Đa mà quyết giết loại chó săn như ngươi đấy!
Chu Văn Tiếp nghe lời nhục mạ, khí uất xông lên. Lại nghe đánh xưng là phò mã Trương Văn Đa, Tiếp chợt nhớ mùa xuân năm trước khi dùng hoả công bị gió thổi ngược, em mình là Chu Đoan Chân cũng bị người xưng phò mã Trương Văn Đa giết chết. Không dằn được lửa hận, Tiếp hét vang vung đao nhảy qua thuyền địch. Văn Đa chờ Tiếp vừa đáp xuống sân thuyền liền đâm một thương nhằm giữa bụng. Đã rút thương, Tiếp tế nhào xuống nước. Bộ tướng của Tiếp là Phạm Văn Sở nghĩ thầm: Tướng Tây Sơn thằng nào cũng giỏ võ, đến thằng con nít này cũng múa thương như rồng bay phượng múa. Năm trước quân Pháp Lang Sa là Mạn Hòe bị Nguyễn Huệ đánh chết ở Thất Kỳ Giang ta có lấy được một cây súng dài. Để ta bắn xem nó có đỡ gạt được không?
Nói rồi lấy súng nạp đạn mà bắn. Trương Văn Đa trúng đạn bị thương, liền hối quân đánh trống thu binh. Nhờ vậy Phạm Văn Sở sai quân vớt được Chu Văn Tiếp lên thuyền. Khi ấy bên trái Đặng Văn Long thúc quân đánh rát quá, quân Nguyễn chết rất nhiều. Lê Văn Quân chống không nối lại chẳng thấy quân Tiêm La ứng chiến bèn truyền lui quân. Thát Si Đa đang ở xa thị chiến thấy thuyền Tây Sơn toàn là thuyền nhỏ mới truyền lệnh tiến quân cứu quân Nguyễn. Đặng Văn Long thấy tướng kỳ trên thuyền quân Tiêm, lại thấy một viên tướng đứng trên thuyền ấy, cạnh những thùng gỗ lớn. Đặng Văn Long nghĩ thầm, mấy thùng gõ kia chắc là thùng thuốc súng chăng? Nghĩ rồi rút tên lửa nhằm vào thùng ấy mà bắn. Tên lửa bắt thuốc súng cháy bùng lên, Thát Si Đa đứng gân đó bị lửa táp cháy vào phồng mình liền nhảy xuống sông. Chiếc soái thuyền của Thát Si Đa chạy lui. Quân Tiêm La vớt Thát Si Đa lên thuyền mình mẩy đều phồng hết cả, đau đớn rên la. Hai bên đều đánh trống thu binh.
Nhắc lại Phạm Văn Sở vớt Chu Văn Tiếp lên thuyền thấy mau loang đó cả vạt áo. Văn Sở liền cởi áo Chu Văn Tiếp, băng bó vết thương ở bụng Tiếp. Văn Sở lo lắng hỏi:
- Đại đô đốc thấy trong người thế nào?
Chu Văn Tiếp ngồi bắt dậy hét lên:
- Trời chưa cho ta bình Tây tặc hay sao?
Văn Tiếp hét to quá đến nỗi ruột lòi ra ngoài vết thương nơi bụng mà chết. Phạm Văn Sở ôm thây khóc mãi không thôi, rồi cùng Lê Văn Quân và Thát Si Đa lui binh về đại bản doanh ở Đông khâu (Sa Đéc).
Nói về tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa bị thương cùng Đặng Văn Long thu binh về đồn Trà Tân.
Đặng Văn Long bàn với Trương Văn Đa:
- Nay quân Tiêm - Nguyễn cả thuỷ lẫn bộ hùn binh năm vạn, quân ta ở đón Trà Tân này có mấy ngàn người. Vả lại tướng quân bị thương, theo tôi ta nên bỏ đồn Trà Tân lui về cố thủ Trường Đồn mới là thượng sách.
Trương Văn Đa vung tay hỏi:
- Tôi chỉ bị thương ở vai nào có hề hấn gì mà Đặng tướng quân phong ngại. Vả chăng giặc tiến ta lại lui, nếu bỏ đón Trà Tân, giặc lại tiến đánh Trường Đồn ta lui nữa hay sao?
Long ôn tồn nói:
- Trường Đồn thành cao hào sâu, quân Tiêm Nguyễn muốn đánh chỉ có hai con đường độc đạo mà thôi, một là đường bộ từ Trà Tân tiến xuống, hai là đường thuỷ theo sông Tiền Giang đánh tới. Trương tướng quân lãnh bộ binh về giữ Trường Đồn, tôi để thuỷ binh án ngữ sông Tiền Giang, thì giặc không ở gì đánh được. Nếu chúng đến đánh ta chỉ có chết chẳng có lùi. Nếu Trường Đồn mà mất, thành Sài Côn dinh Phiên Trấn không thể nào giữ nổi.
Bàn bạc xong Đặng Văn Long và Trương Văn Đa lệnh quân chuẩn bị quân trang để ngày mai bỏ đồn Trà Tân lui về cố thủ Trường Đồn. Chẳng ngờ dân chúng trong vùng hay tin đó, trong đêm ấy rủ nhau kéo đến đồn Trà Tân xin gặp quan trấn thủ. Đặng Văn Long và Trương Văn Đa nghe báo liền ra trước dân hỏi:
- Đang đêm các ngươi kéo đến đây có việc gì?
Một cụ già bước ra đáp:
- Quân Tiêm La đi đến đâu cũng tàn sát người già, con nít, hãm hiếp đàn bà con gái, cướp bóc của cải dân lành. Nay tướng quân định bỏ đồn mà đi, thì quân Tiêm kéo đến chúng tôi ắt là phải chết. Xin tướng quân hãy ở lại đánh giặc. Nhân dân chúng tôi già trẻ lớn bé xin tình nguyện làm lính đánh quân Tiêm La.
Dân chúng đồng thanh hô vang:
- Xin tướng quân ở lại đánh giặc! Xin tướng quân ở lại đánh giặc!
Chờ dân chúng lắng im, Đặng Văn Long ứa nước mắt nói:
- Nguyễn Phúc Ánh rước giặc Tiêm La về tàn hạ dân ta. Hiện binh của chúng đông hơn ta gấp bội, đồn Trà Tân lại trống trải không thể giữ được lâu dài nên ta định lui về cố thủ Trường Đồn, chờ Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem đại binh vào sẽ đánh đuổi chúng đi. Xin bá tánh hiểu cho chúng tôi không phải là sợ giặc, chỉ tránh thế mạnh giặc lúc đầu đề bảo toàn lực lượng mà thôi.
Dân cũng nói:
- Nếu tướng rút quân về Trường Đồn, dân chúng tôi đành phải bỏ xóm làng theo về thành Trường Đồn lánh nạn vậy.
Nói rồi dân chúng về nhà thu dọn hành ly, già trẻ lớn bé gồng gánh đều dìu nhau chạy về thành Trường Đồn. Trương Văn Đa nói với Đặng Văn Long rằng:
- Nay dân chúng bỏ làng mạc theo quân ta, vậy tôi và ông phải tạm thời ở lại trấn thủ Trà Tân cho khi dân chúng đến nơi rồi ta sẽ rút binh sau.
Đặng Văn Long gật đầu bảo:
- Sáng ngày mai quân Tiêm - Nguyễn sẽ tiến đánh ta, ắt đêm nay chúng sẽ cho quân do thám đến gần đồn dò xét. Vậy ta dùng kế nghi binh, giặc tạm thời sẽ không dám tiến quân.
Trương Văn Đa hỏi:
- Sao tướng quân dám chắc rằng ngày mai chúng sẽ tiến đánh ta?
Văn Long trầm ngâm đáp:
- Chu Văn Tiếp bị tướng quân đâm chết, Thát Si Đa bị tôi đốt cháy khắp mình, Chiêu Tăng tất nổi giận mà đánh báo thù. Ngặt vì đêm nay nước thuỷ triều đang lớn, chúng tiến xuống sẽ ngược dòng nước chảy. Rạng sáng ngày mai nhân lúc nước rút chúng sẽ xuôi dòng tiến đánh quân ta. Ngay bây giờ ta cứ làm như vậy... như vậy... Nguyễn Phúc Ánh ắt sợ mà khuyên Chiêu Tăng án binh bất động dò xét thực hư khi ấy nhân dân quanh vùng đã về đến Trường Đồn rồi. Bấy giờ ta có rút binh cũng chẳng muộn gì.
Trương Văn Đa khen:
- Long Nhương tướng quân thật là sang suốt mới để Đặng tướng quân ở lại cùng tôi trấn đất Gia Định.
Nói xong Trương Văn Đa đến các doanh trại bộ binh. Đặng Văn Long xuống nơi thuỷ trại. Hai người bảo quân sĩ đồng thanh họ lớn: Long Nhương tướng quân đã đến, quân Tiêm - Nguyễn ắt phải tán. Long Nhương tướng quân đã đến, quân Tiêm - Nguyễn ắt phải tàn.
Trong đem tĩnh mịch tiếng hô vang dội xa hàng mấy dặm.
Nói về Nguyễn Phúc Ánh ở Đông Khẩu nghe tin quân bại trận, Đô đốc Chu Văn Tiếp bỏ mạng, Thát Si Đa bị thương bỏng nặng. Phúc Ánh khóc Tiếp rằng:
- Thương thay Chu Văn Tiếp, khi thì từ Phú Yên vào Gia Định giúp chúa, khi thì lặn lội sang Tiếm quốc viện binh. Nhà có bốn anh em đều vì ta mà chết cả. Ôi thương thay Chu Văn Tiếp!
Khóc rồi sai quân mai táng trọng thể. Chiêu Tăng thấy Thát Si Đa bị bỏng khắp mình nổi giận quát rằng:
- Lũ giặc có Tây Sơn dám đốt tướng của ta. Nay ta sai Chiêu Tăng đem một vạn thuỷ binh tiến đánh thuỷ trại của giặc, và Lục Côn, Sa Uyển đem một vạn bộ binh tiến đánh đồn Trà Tân. Vậy phiền chúa hạ cho tướng theo dẫn đường.
Phúc Ánh mừng rỡ nói:
- Tướng quân tiến đánh Tây Sơn là may cho ta lắm, việc dẫn dường nào có khó gì.
Nói xong Ánh bảo tướng của mình rằng:
- Nay ta phong Lê Văn Quân thay Chu Văn Tiếp làm Bình Tây đại đô đốc, dẫn đường bình thuỷ đánh Tây Sơn. Phong Lê Văn Duyệt làm tả quân đô đốc dẫn đường binh bộ đánh Trà Tân.
Phúc Ánh và Chiêu Tăng phân công đâu đó xong xuôi chờ ngày mai xuất kích.
Rạng sáng hôm sau quân Tiêm - Nguyễn, thuỷ bộ hai đạo hàng ngũ chỉnh tề chờ có nước xuống sẽ xuất quân. Bỗng quân do thám hớt hải về báo rằng:
- Thưa Chúa thượng, quân Tây Sơn trong đồn Trà Tân và thuỷ trại trên sông Tiền Giang đồng hô vang rằng: Long Nhương tướng quân đã đến, quân Tiêm - Nguyễn ắt phải tan. Chúng thần nghe thấy vội về báo cùng Chúa thượng được rõ.
Phúc Ánh giật mình:
- Nay Nguyễn Huệ đã đem binh vào đến Trà Tân, ắt là có phòng bị. Theo ý ta nên dồn binh để xem thực lực của Huệ thế nào rồi xuất binh tiến đánh cũng chẳng muộn gì.
Chiêu Tăng cau mày bảo:
- Lúc ta chưa muốn tiến binh thì chúa hối thúc để đến nỗi tướng của ta bị cháy bỏng khắp mình. Nay ta muốn đánh báo thù thì chúa lại ngăn trở là ý là sao? Thì ra là chúa sợ Nguyễn Huệ đến thế ư?
Ánh chống chế:
- Chẳng phải là ta sợ Nguyễn Huệ không đã tiến binh. Nhưng binh pháp có câu: Biết người biết ta trăm trận trăm thăng. Quân Tây Sơn có Nguyễn Huệ thật là kiết hiệt đa mưu túc trí, dụng binh rất lạ không ai có thể lường trước được. Nhớ năm xưa sông Lại Dương hắn bày mưu đốt lửa ngăn sông, chỉ dùng có năm ngàn quân tiêu diệt ba vạn quân ta do Tôn Thất Hương thống lĩnh. Rồi ở thành Phú Yên hắn cũng chỉ dùng năm ngàn binh lập kế nghi binh đánh tan hai vạn quân ta do Tống Phước Hiệp chỉ huy. Sau đó hắn ba lần đem quân vào Gia Định, lần đấu bắt sống hai chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương, lần thứ hai đốt cháy tàu quân Phá Lang Sa sang cầu viện cho ta, lần thứ ba đợt thuyền Chu Văn Tiếp ở Thất Kỳ Giang. Hắn lại biết trước ta thế nào cũng chạy ra Phú Quốc mới sai tướng phục sẵn nơi đảo này, ta chạy thoát sang đảo Côn Lôn tướng của hắn là Trương Văn Đa, đem chiến thuyền vậy đảo. May nhờ trời giúp cho, nổi gió đánh đắm gần hết thuyền giặc nên ta mới thoát chết sang cầu viện Tiêm vương. Nay hắn lại kéo đại binh vào đây ta không thể không đề phòng. Xin tướng quân nghĩ lại.
Chiêu Tăng nghe Ánh nói xong bực mình bảo:
- Truyền lệnh ta bãi binh. Sai quân do thám tình hình quân địch xem sao rồi sẽ liệu.
Nói xong Chiêu Tăng quày quả ra về đại bản doanh. Bên doanh trại Tây Sơn, Trương Văn Đa nghe tin ấy khen Đặng Văn Long:
- Quá đúng như tướng quân dự đoán, quân Tiêm - Nguyễn không dám tiến binh. Đặng tướng quân thật liệu việc hơn người.
Văn Long nhún nhường nói:
- Trương tướng quân khen quá lời, tôi nào có tài cán gì. Chẳng qua ấy là nhờ uy danh của Long Nhương tướng quân mà thôi.
Nói xong Trương Văn Đa và Đặng Văn Long bỏ đồn Trà Tân đem binh lui về giữ Trường Đồn.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 32

Bùi Thị Xuân bắn tên mắng Nguyễn Vương.
Nguyễn Long Nhương sai sứ hoà Tiêm quốc.



Nhắc lại Đô đốc Đặng Văn Trấn vâng lệnh Trương Văn Đa về Quy Nhơn cấp báo cùng vua Thái Đức.
Vua Thái Đức liền sai quân nổi trống thiết triều. Đủ mặt bá quan văn võ, vua nói:
- Đô uý Đặng Văn Trấn từ Gia Định về báo rằng: Phúc Ánh cầu viện nước Tiêm La. Hiện quân Tiêm La đem thuỷ bộ binh năm vạn tiến sang. Phò mã Trương Văn Đa và đại Đô đốc Đặng Văn Long lui binh về giữ Trường Đồn. Nghe giặc Tiêm La sát hại đồng bào, hãm hiếp phụ nữ, vơ vét của cải, ta thật thương lương dân gặp nạn, giận lũ giặc tham tàn. Vậy nay ta lệnh cho Long Nhương Nguyễn Huệ làm chánh tướng, Tiết chế Nguyễn Lữ làm phó tướng được trọn quyền điều động binh lương. Huệ và Lữ hãy lập tức xuất binh đuổi ngoại xâm ra khỏi biên thuỳ, cứu muôn dân thoát vòng nước lửa, chớ phụ lòng mong đợi của ta.
Các tưởng cũng quỳ tâu:
- Xin Bệ hạ an lòng, chúng thần nguyện một lòng quét sạch quân Tiêm ra ngoài bờ cõi, bắt Phúc Ánh về cho Bệ hạ trị tội bán nước buôn dân.
Bỗng Vũ Văn Dũng từ ngoài chạy vào nói lớn:
- Xin Bệ hạ cho thần vào Nam đánh quân Tiêm - Nguyễn chứ thần làm võ tướng mấy năm nay trấn thủ Quảng Nam, không được đánh đấm gì cả, thật là chân ngứa ngáy vô cùng.
Nguyễn Huệ bước ra hỏi:
- Tam sư để Vũ Văn Dũng đang cùng Võ Đình Tú trấn thủ Quảng Nam vì sao lại có mặt ở kinh thành?
Dùng vung tay đáp:
- Tôi từ Quảng Nam về đây bẩm báo tình hình biên ải. Từ ngày Phạm Ngô Cầu vào trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá, lấy đèo Hải Vân làm ranh giới án binh bất động, không có ý dòm ngó đất Quảng Nam ta. Nào ngờ mới về đến đây nghe Phúc Ánh cõng rắn cắn gà nhà, rước giặc Tiêm La giày xéo nước ta. Tôi nghe như lửa đốt trong lòng. Xin Bệ hạ và đại sư huynh cho tòng chinh vào Nam đánh giặc.
Nguyễn Huệ ôn tồn khuyên Vũ Văn Dũng:
- Quân Trịnh ở Phú Xuân, Thuận Hoá còn hai vạn binh tinh nhuệ đang chờ có dịp xâm phạm đất Quảng Nam ta, thế nên việc trấn thủ đất Quảng Nam phòng quân Trịnh, ngoài Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú có ai làm nổi. Dũng nên nhớ rằng có yên được mặt Bắc thì mới đánh thắng mặt Nam. Vậy Văn Dũng hãy trở về cùng Võ Đình Tú trấn thủ Quảng Nam, ấy là đã lập nên công lớn đó.
Vũ Văn Dũng vâng lệnh lui ra.
Hôm sau Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh hai trăm chiến thuyền và hai vạn tinh binh cùng các tướng Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Văn Trấn đi đường bể vào Nam đánh giặc. Vua Thái Đức đích thân ra đến tận cửa Thị Nại tiễn đưa. Vua tự tay rót rượu cho Huệ và Lữ rồi nói:
- Hai em đã vì anh xông pha nơi hòn tên mũi đạn chinh Nam phạt Bắc. Chuyến này vào Gia Định hãy gắng công mau báo tiệp khải hoàn cho an lòng anh.
Huệ và Lữ cùng nâng chén uống cạn. Huệ nói:
- Xin hoàng huynh chớ nên lo lắng. Em đi đánh giặc phen này xin hứa sẽ quay về ăn tết Ất Tỵ.
Vua Thái Đức nghi ngờ hỏi:
- Nay đã là ngày hai mươi tháng mười một năm Giáp Thìn, chỉ còn bốn mươi ngày nữa là đến tết Ất Tỵ. Tính thời gian đi ra đi vào mắt hết hai mươi ngày, chỉ còn hai mươi ngày em nghĩ răng có thể phá được giặc sao?
Huệ đáp giọng tự tin:
- Khi hay tin Đặng Văn Long và Trương Văn Đa đem toàn quân về cố thủ Trường Đồn thì kế sách đánh giặc em đều tính toán cả rồi. Quân ta vào phen này chỉ đánh một trận là tiêu diệt xong quân Tiêm - Nguyễn mà thôi. Xin hoàng huynh chớ ngại.
Nói rồi bái biệt toan bước xuống thuyền, bỗng nghe tiếng gọi lớn:
- Long Nhương tướng quân xin dừng bước!
Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra nữ đô đốc Bùi Thị Xuân đang lướt ngựa xông đến. Bùi Thị Xuân nhảy xuống ngựa thi lễ với vua Thái Đức. Xuân nói:
- Xin Bệ hạ cho thần được tòng chinh vào Nam đánh giặc Tiêm - Nguyễn.
Vua bảo:
- Ta đã trao quyền điều binh khiển tướng cho Nguyễn Huệ, việc này do Huệ định đoạt vậy.
Nguyễn Huệ nói đùa cùng Xuân rằng:
- Ta vào Nam chuyến này tinh binh hai vạn, hổ tướng có thừa. Cô Xuân là nữ nhi anh kiệt thiên hạ đểu biết tiếng còn xin theo chinh chiến làm gì?
Bùi Thị Xuân nét mặt đau đáu đáp:
- Chẳng phải tôi muốn làm nữ nhi anh kiệt. Nhưng Nguyễn Phúc Ánh rước quân Tiêm La về tàn hại dân ta là do tội của tôi. Nay tôi xin theo tướng quân đánh giặc, quyết trừ Phúc Ánh mới lấy công chuộc tội của tôi được. Nếu Long Nhương không cho tôi quyết quỳ mãi nơi này.
Nguyễn Huệ hỏi Trần Quang Diệu:
- Có Xuân đã quyết lòng như thế, ý Trần Quang Diệu thế nào?
- Năm xưa phu nhân tôi hai lần truy đuổi đều để cho Phúc Ánh chạy thoát, nên trong lòng áy náy tự cho rằng mình có tội. Nay Phúc Ánh rước giặc Tiêm La tàn hại dân lành, phu nhân tôi lại càng bị lương tâm cắn rứt. Xin tướng quân hay cho phu nhân tôi tòng chinh ắt trong lòng sẽ thảnh thơi hơn. Ấy là tướng quân đã ban ơn cho vợ chồng tới đó. (Nguyên lần tha Nguyễn Phúc Ánh, Bùi Thị Xuân giấu cả chống mình là Trần Quang Diệu nên Diệu chỉ biết có hai lần, một lần Phúc Ánh chui xuống giường sản phụ mà trốn, một lần ở cửa Hàm Luông, Phúc Ánh nhờ bão thoát thân).
Nghe Diệu nói xong, Nguyễn Huệ vui vẻ cho Bùi Thị Xuân tòng chinh. Xuân mừng rỡ khóc lậy tạ ơn. Nguyễn Huệ cảm động hỏi:
- Ta đã bao lần nói với cô Xuân rằng: xưa nay có sách binh thu nào nói không bắt được tướng giặc là có tội bao giờ. Sao cô lại cố chấp tự làm khổ mình như vậy!
Bùi Thị Xuân chỉ gạt lệ không đáp.
Nguyễn Huệ hạ lệnh xuất binh. Hai trăm chiến thuyền và hai vạn quân Tây Sơn giong buồm ra cửa bể thẳng đường Nam tiến. Nguyễn Huệ đi rồi thái giám Vũ Tâm Can tâu với vua Thái Đức:
- Long Nhương tướng quân vào Nam phen này đem theo các tướng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân đều là tay chân của Long Nhương cả. Điều ấy không đáng ngại hay sao?
Vua Thái Đức giận lắm nạt:
- Giặc Tiêm La đang hại dân ta, nếu không phải là Nguyễn Huệ cầm quân thì liệu ai có thể phá được năm vạn binh lang sói ấy. Trong lúc bá quan tướng sĩ đều vì nước vì dân, xả thân chinh chiến ngoài biên ải ngươi lại bướng lời gièm xiểm, thật là đáng chết.
Nói xong vua truyền quân lôi Vũ Tâm Can ra chém. Võ sĩ lôi Vũ Tâm Can đi xong, vua Thái Đức ngh lại rằng: Năm xưa cha nó là Huyền khê Vũ Tất Thận vì uống rượu phạm vào quân lệnh bị ta xử tội trước dân ở ấp Tây Sơn mà phải tự vẫn mà chết. Từ ấy ta tự nguyện nuôi nó như con. Nay nếu giết đi chẳng hoá ra ta là người bất nhân bất nghĩa hay sao?
Nghĩ xong liền hối quân xá tội cho Vũ Tâm Can, rồi quay về ngự điện. Vũ Tâm Can thoát chết về nhà hỏi mẹ:
- Những lần trước con nói gièm rằng, nên đề phòng Nguyễn Huệ đem nanh vuốt ra ngoài biên ải thì Nguyễn Nhạc giật mình liền cho người tam phủ theo để chia binh quyền với Nguyễn Huệ. Sao lần na Nguyễn Nhạc lại toan giết chết con?
Vũ mẫu đáp:
- Nguyễn Nhạc có tính hay đố kỵ người tài đức hơn mình, nhưng lại rất thương kẻ cùng đường cô thế. Lần này Nguyễn Nhạc chỉ nghĩ đến việc nhân dân Gia Định bị quân Tiêm La tàn hại, mà quên việc Nguyễn Huệ lấn quyền. Lần sau nếu muốn báo thù cha, còn phải lựa thời mà nói.
Vũ Tâm Can thưa:
- Con xin vâng lời mẹ dậy! Nguyễn Nhạc những ngày khởi binh ở Tây Sơn Thượng nhờ cha con đem hết gia đình của cải theo giúp. Cha con chỉ vì phạm tội uống rượu mà phải bị Nguyễn Nhạc xử tội chết. Con thề sẽ phá tan có nghiệp của anh em Nhạc, Huệ báo thù cha mới thoả lòng căm hận.
Nói về Nguyễn Huệ đem hai vạn binh vào Nam lần này Huệ không vào cửa Cần Giờ lên thành Sài Côn mà cho chiến thuyền vào cửa biển Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến vào thành Trường Đồn. Phò mã Trương Văn Đa và Đô đốc Đặng Văn Long hay tin tự trói mình ra đón Nguyễn Huệ. Trương Văn Đa quỳ thưa:
- Quân Tiêm sang xâm lược nước ta. Cháu và đại đô đốc Đặng Văn Long không chống nổi phải để toàn quân về cố thủ Trường Đồn, bỏ hết một nữa đất đai Gia Định về tay giặc. Xin thúc phụ trị tội!
Nguyễn Huệ sai quân mở trói cho hai tướng rồi an ủi:
- Tránh thế mạnh của địch lúc ban đầu, bảo toàn lực lượng quân ta lui về giữ nơi hiểm yếu, ấy thật là thượng sách. Lần trước rút binh về Quy Nhơn ta đã để Đặng Văn Long ở lại giúp Trương Văn Đa trấn thủ đất Gia Định, vậy kế này có phải của Đặng Văn Long chăng?
Trương Văn Đa đáp:
- Thưa thúc phụ, kế này chính là do Đặng đô đốc bày ra.
Nguyễn Huệ hạ lệnh:
- Trương Văn Đa đã lập nên công lớn giết chết thằng bán nước Chu Văn Tiếp, vả lại Đa đang bị thương và ta lệnh cho ngươi quay về trấn thủ thành Sài Côn để dưỡng thương - Đoạn quay sang Đặng Văn Long, Huệ nói - Đặng Văn Long quay về thành Trường Đồn trấn thủ. Các tướng sĩ không được nghĩ ngợi theo ta tiến lên đồn Trà Tân đánh quân Tiêm - Nguyễn.
Đặng Văn Long can rằng:
- Quân ta đi đường xa mới đến ắt có phần mỏi mệt. Quân Tiêm - Nguyễn đóng một nơi an nhàn mạnh khỏe, lấy quân mệt đi đánh quân khỏe e rằng bất lợi. Xin đại huynh xét lại.
Huệ cười đáp:
- Ta hẹn với hoàng huynh về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ, mà này đã là mùng một tháng chạp! Ta gấp rút đem quân tiến đánh là muốn phô trương thanh thế quân ta và xem thực lực của giặc mà thôi. Ta đâu dại đem quân mình vào chỗ chết. Tứ sư đệ chớ lo!
Nói rồi không nghe lời Văn Long, Huệ lệnh quân thừa lúc nước thuỷ triều đang lớn thẳng tiến về đồn Trà Tân.
Nơi đại bản doanh Tiêm - Nguyễn, quân do thám về báo cùng Nguyễn Phúc Ánh và Chiêu Tăng.
- Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đang tiến đánh quân ta.
Phúc Ánh giật mình nói với Chiêu Tăng:
- Quân Tây Sơn chủ động tấn công trước chắc là Nguyễn Huệ đã đem đại binh vào đến nên chúng mới dám to gan như vậy.

lu khach

lu khach
Bạn Chí Cốt
Bạn Chí Cốt

Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
Chương 32 (tt)



Nói rồi Ánh liền cùng Chiêu Tăng đích thân ra ngoài thuỷ trại xem xét. Đến nơi thấy từ xa thuyền Tây Sơn lớp lớp, ào ào lướt sóng tiến về phía quân mình, lại thấy chiếc soái thuyền dẫn đầu đoàn quân Tây Sơn trương cờ đề "Long Nhương đại tướng quân", Phúc Ánh lại giật mình nói với Chiêu Tăng:
- Xin tướng quân hay lệnh quân sĩ giữ vững đoạn trái, dùng thuỷ trại và đồn Trà Tân làm thế ỷ giốc với nhau. Nếu quân Tây Sơn tiến đánh thuỷ trại, thì đại bác trên đồn Trà Tân bắn xuống giặc ắt phải lui.
Chiêu Tăng nhếch mép cười bảo:
- Việc gì mà chúa lại sợ Huệ đến thế. Lần trước Đặng Văn Long giả danh cho quân sĩ họ lên rằng: "Long Nhương tướng quân đến", khiến chúa sợ bóng sợ gió không dám tiến binh, nên Đặng Văn Long mới lui về Trường Đồn được an toàn. Rồi khi quân do thám của ta về bảo rằng giặc Tây Sơn ở đồn Trà Tân về cố thủ Trường Đồn thì chúa lại báo rằng: "E Nguyễn Huệ dùng kế không thành". Lần hồi mãi đến nay mới chiếm lấy Trà Tân bỏ trống. Ấy thật là chúa vì sợ, thấy gà hoá cuốc làm chậm bước tiến của quân ta mà thôi.
Phúc Ánh xấu hổ chẳng biết trả lời thế nào. Chiêu Tăng lại nói tiếp:
- Nay trời đã xế chiều xuất quân không tiện, ta cứ án binh phòng thủ xem Nguyễn Huệ làm gì được ta nào.
Chiêu Tăng vừa nói xong đã thấy chiến thuyền Tây Sơn tiến sắt thuỷ trại. Nguyễn Huệ đứng trên soái thuyền hạ lệnh tiến công. Quân Tây Sơn bắn đại bác ầm ầm vào thuỷ trại quân Tiêm - Nguyễn. Chiêu Tăng phất cờ hiệu, đại bác trên đồn Trà Tân bắn xuống và đại bác trong thuỷ trại quân Tiêm bắn ra. Chiến thuyền nhỏ quân Tây Sơn trúng đạn vỡ mất vài chiếc. Nguyễn Huệ liền hô quân lui ra khỏi tầm đại bác. Huệ bảo các tướng:
- Quân Tiêm rất đông và mạnh, thuyền và súng đại bác của chúng chẳng kém quân ta. Chúng lại lấy thuỷ trại dưới sông Tiền Giang và bộ binh trên đồn Trà Tân làm thế ỷ giốc với nhau. Nếu chúng không ra đánh, ta thật khó mà thủ thắng. Phải làm sao dụ chúng ra khỏi trại mà tiêu diệt mới xong.
Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu nói:
- Để tôi bảo quân sĩ gọi thằng bán nước ra mà chửi xem thử nó có chịu ra đánh hay chăng?
Nói xong Văn Tuyết bảo quân đồng thanh hô lên rằng:
- Thằng bán nước Phúc Ánh, có giỏi thì ra mà đánh với ta! Thằng bán nước Phúc Ánh, có giỏi thì ra mà đánh với ta!
Trong doanh trại, nghe quân Tây Sơn chửi, Phúc Ánh nói với các tướng:
- Cứ án binh bất động, lát nữa nước triều rút, chúng cũng sẽ rút theo.
Quân Tây Sơn chửi mãi mà quân Tiêm - Nguyễn vẫn không ra. Trời tối nước triệu rút, Nguyễn Huệ truyền lệnh thu binh. Khi quân lui về đến nửa đường từ Trà Tân đến Trường Đồn, lòng sông bắt đầu mở rộng chừng vài dặm, Huệ bảo:
- Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc, hai người hãy lãnh ba ngàn quân và ba chục chiếc đại thuyền lập thuỷ trại giăng ngang sống cố thủ nơi này. Hễ sáng thuỷ triều lên thì đem binh đến trại địch khiêu chiến. Đến khi thuỷ triều rút thì lại lui về đây. Nếu giặc đem đại binh tiến đánh thì lập tức lui quân về Trường Đồn. Khi chưa có lệnh ta cứ như vậy mà làm.
Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn Tuyết vâng lệnh đem chiến thuyền giăng ngang sông lập thuỷ trại.
Nguyễn Huệ lại tiếp tục đem chiến thuyền lui về Trường Đồn. Đến đoạn sông có một nhánh sông nhỏ đâm ngang nơi tả ngạn, lòng sông lại mà rộng hơn, giữa sông nổi lên một cù lao dài chừng mấy dặm. Huệ hỏi các tướng:
- Các tướng có biết sông và cù lao này tên gọi là gì chăng?
Đô uý Đặng Văn Trấn thưa:
- Nhánh sông nhỏ này tên gọi là sông Rạch Gầm. Cù lao này là cù lao Thới Sơn.
Huệ lại hỏi:
- Các ngươi có biết vì sao ta quân tâm đến đoạn sông này chăng?
Các tướng đều đáp:
- Chúng tôi không được biết! Xin Long Nhương giải cho!
Huệ trỏ tay xuống sông nói lớn:
- Nay là mùng một tháng chạp. Các ngươi hãy nhớ lấy lời ta, ngày mùng chín tháng chạp ta sẽ giết giặc ở đoạn sông này!
Nguyễn Lữ hỏi:
- Em không hiểu vì sao lại là ngày mùng chín. Xin anh cắt nghĩa rõ hơn?
Huệ nhíu mày, vầng trán đầy nếp nhăn rồi chậm rãi nói:
- Đợi chín ngày nữa tháng giặc rồi anh sẽ giải.
Nói xong Nguyễn Huệ xuôi về Trường Đồn lập đã bản doanh.
Hôm sau trời vừa hửng sáng nước thuỷ triều lên mạnh, Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc lại đem chiến thuyền đến Trà Tân khua chiêng trống inh ỏi. Quân Tiêm - Nguyễn vẫn cố thủ không ra đánh. Quân Tây Sơn tiến đến gần lại bị súng đại bác trên đồn Trà Tân bắn xuống phải lui ra. Tuyết và Lộc lại bảo quân gọi tên Phúc Ánh mà chửi. Quân Tây Sơn hét vang:
- Thằng Phúc Ánh bán nước buôn dân, mau ra đã chịu chết!
Chửi mãi đến lúc nước triều rút chảy quân Tây Sơn phải kéo nhau về. Lộc bảo Tuyết:
- Quân Tiêm - Nguyễn chỉ thủ mà không đánh. Ta cứ tiến lên rồi lại lui về thật hoài công vô ích.
Văn Tuyết nhăn nhó nói:
- Long Nhương cần đến ta chưa có lệnh cứ như vậy mà làm. Ngày mai lại khiêu chiến nữa xem sao.
Lộc bảo:
- Đêm nay ta sai người về bẩm báo cùng Long Nhương xem người có kế gì chăng?
Nói rồi sai quân mang thư về Trường Đồn dâng Nguyễn Huệ. Huệ xem xong cười bảo:
- Tuyết và Lộc thấy giặc cố thủ không ra đánh nóng ruột xin lệnh tấn công. Quân bay quay về bảo đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc cứ y lời ta dặn mà làm. Nếu trái lệnh chém đầu.
Bùi Thị Xuân bước ra thưa:
- Xin Long Nhương cho tôi ngày mai theo đô đốc Tuyết và Lộc ra trận. Tôi có kế dụ Nguyễn Phúc Ánh phải ra đánh.
Huệ lắc đầu bảo:
- Phúc Ánh nghe ta đến đây, dù gan trời cùng chẳng dám xuất quân.
Bùi Thị Xuân hỏi:
- Nếu tôi khích được Phúc Ánh ra trận thì Long Nhương tính thế nào?
Huệ cả cười đáp:
- Nếu được thế ta nhường quyền điều bình khiển tướng cho có Xuân. Nhược bằng không từ giờ về sau ta sai đâu thì phải y lệnh không được xin xỏ gì cả!
Xuân cương quyết nói:
- Xin dượng rễ chớ có quên lời, phen này dượng rễ ắt là phải thua cuộc rồi.
Sáng ngày thứ ba, Bùi Thị Xuân theo Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc ra trận. Đến thuỷ trại quân Tiêm - Nguyễn thấy soái thuyền Phúc Ánh từ xa, Bùi Thị Xuân quấn một phong thư quanh thân tên rồi nhằm thuyền Phúc Ánh mà bắn. Lúc ấy Lê Văn Quân đứng trên mui thuyền bắt được tên thư bèn giở ra xem. Thư viết rằng:
"Nay đô đốc Tây Sơn là Bùi Thị Xuân gửi Nguyễn vương Phúc Ánh.
Năm xưa Chúa ta hát được hai chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương ở cửa Hàm Luông. Ta đuổi theo bắt được mẹ con ngươi. Thương mẹ và em ngươi làm phận đàn bà, lại thấy ngươi là thằng con nít nên ta mới tha chết cho ngươi; Ngờ đâu ngày trước ngươi quỳ lạy dưới gấu quần của ta nay lại giở thói hèn hạ ấy quỳ lạy Tiêm La rước giặc về tàn hại dân lành. Ta bảo ngươi, nay ta định đây quyết bắt ngươi để chuộc tội ngày xưa thả cho thằng tiểu nhân đê hèn bán nước cầu vinh. Ngươi hãy bảo quân Tiêm La đem binh thuyền ra giữa chiến trường huyết chiến một phen, đừng chui rúc trong hàng như loài chim chuột, thân nhi nữ khuê môn bất xuất như ta cũng lấy làm xấu hổ lắm thay!
Lê Văn Quân xem xong rồi đem vào dâng lên Phúc Ánh, Phúc Ánh giở thư ra đọc xong xé nát thư, đỏ mặt nói:
- Con tiện tỳ này ngày trước đuổi ta ở Hàm Luông, nhờ bão nên ta và ngươi cùng Trương Tấn Bửu mới chạy thoát. Nay Nguyễn Huệ thấy ta cố thủ không ra đánh, mới sai Bùi Thị Xuân đặt điều nói bậy để khích ta mà thôi.
Phúc Ánh nói xong xua tay ra hiệu cho Lê Văn Quân ra ngoài. Quân đi xong Ánh nghĩ thầm: Việc Bùi Thị Xuân tha chết cho ta chỉ có ba mẹ con ta biết. Nay thêm Lê Văn Quân, nữa là người thứ tư.
Bùi Thị Xuân bắn tên đứa thư cho Phúc Ánh xong, chờ mãi vẫn không thấy quân Tiêm - Nguyễn ra đánh bèn sai quân gào lên: "Nguyễn Phúc Ánh ra mà lậy, nữ đô đốc sẽ tha chết cho".
Trong doanh trại quân Tiêm - Là, Chiêu Tăng nghe vậy nói với thủ hạ:
- Quân Tây Sơn đã ba ngày liền kêu tên Phúc Ánh chửi mắng mà Phúc Ánh vẫn không xin ta ra đánh chứng tỏ Phúc Ánh sợ Nguyễn Huệ đến dường nào.
Chiêu Sương hỏi:
- Kế sách đánh Tây Sơn tướng quân như thế nào?
Chiêu Tăng đáp:
- Quân Tây Sơn mới tới khí thế đang hăng, ngả nào cũng ra khiêu chiến. Ta cứ án binh bất động, lau ngày chúng nản lòng ắt sinh lười nhác, khi ấy ta thừa cơ tiến đánh tất phải thắng.
Ngoài sông Tiền Giang quân Tây Sơn chửi mãi đến lúc nước rút lại kéo nhau về. Bùi Thị Xuân về Trường Đồn yết kiến Nguyễn Huệ, nói:
- Tôi dùng mọi cách để khiêu khích, Phúc Ánh vẫn cố thủ không ra đánh.
Nguyễn Huệ cả cười bảo:
- Con người của Phúc Ánh dám cam tâm lậy lục ngoại bang về tàn hại dân nước mình, thì chửi như nào mà không chịu được, có chửi mắng thế nào cùng vô ích mà thôi!
Nói rồi Nguyễn Huệ gọi tên quân đến bảo:
- Ngươi mau tới thuỷ trại đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc truyền lệnh ta: Bắt đầu từ ngày mai án binh bất động canh phòng cẩn mật không phải đến trại địch khiêu chiến nữa.
Quân lãnh lệnh đi ngay. Huệ lại hỏi:
- Nay ta muốn giảng hoà với quân Tiêm La, Phan Văn Lân có thể vì ta đi sứ được chăng?
Phan Văn Lân bước ra hỏi lại Nguyễn Huệ:
- Tôi thân làm võ tướng gặp giặc thì đánh, sao Long Nhương lại sai tôi đi sứ?
Huệ cười hỏi:
- Văn Lân có can trường của võ tướng những lại có vóc dáng của một thứ sinh, ắt Chiêu Tăng không nghi ngờ rằng ta sai tướng sang do thám địch tình. Văn Lân lại không làm được việc này sao?
Phan Văn Lân đáp:
- Nếu là tướng lệnh, há tôi lại sợ chúng hay sao!
Huệ cả mừng nói:
- Hay lắm! Vậy Văn Long hãy kíp sang doanh trại Tiêm La gặp Chiêu Tăng nói như vậy... như vậy... Chiêu Tăng ắt sẽ trúng kế của ta. Nhất định ngày mùng chín hắn sẽ đem binh tiến đánh.
Nơi về Chiêu Tăng, ngày hôm sau không thấy quân Tây Sơn đến khiêu chiến, liền mời Phúc Ánh đến nói:
- Nguyễn Huệ vừa kéo binh đến đây, ba ngày liền cho quân khiêu chiến, hôm nay lại không thấy để chẳng biết là có ý gì?
Phúc Ánh chưa kịp đáp xảy quân vào báo:
- Thưa đại tướng quân, có sử giả quân Tây Sơn xin vào ra mắt.
Chiêu Tăng hỏi:
- Sứ giả Tây Sơn xin vào gặp ta hay gặp chúa Nguyễn vương?
Tên quân đáp:
- Sứ giả nằng nặc đòi gặp riêng đại tướng quân.
Chiêu Tăng bảo Phúc Ánh:
- Phiền chúa hãy tạm lánh mặt để tôi tiếp sứ xem Nguyễn Huệ muốn gì.
Ánh liền đến nắp sau bức bình phòng, Chiêu Tăng cho gọi sử giả vào. Phan Văn Lân vào tới, Chiêu Tăng nạt thị oai:
- Tên học trò kia không sợ chết sao mà dám vào đồn đây gặp đại soái?
Phan Văn Lân điềm nhiên đáp:
- Long Nhương tướng quân tôi vì sợ chết nên mà sai tôi đến đây gặp đại soái xin giảng hoà.
Chiêu Tăng cười to nói:
- Nguyễn Huệ to gan dám phạm oai trời, ba ngày liền cho quân khiêu chiến chửi mắng suốt ngày. Nay thấy không thắng nổi quân ta mới giảng hoà chăng?
Văn Lân đáp:
- Quân Tây Sơn tôi chỉ kêu Phúc Ánh mà chửi chứ đâu phạm đến oai trời. Nay Long Nhương tướng quân sai tôi đến đây thưa với đại soái rằng: Việc của chúa Nguyễn Phúc Ánh và vua Tây Sơn là việc của nước tôi. Vua tôi với Tiêm Vương vốn không thù oán việc gì đại soái phải gây cuộc đại chiến cho tổn hại sinh linh. Nếu đại soái bằng lòng rút binh về nước để người nước tôi tự giải quyết lấy chuyện riêng thì sau khi an bình, vua nước tôi theo lệ hằng năm nộp cống. Ấy chẳng phải là được lợi cả đôi bên sao?
Nghe Văn Lân nói xong, Chiêu Tăng giả vờ ngẫm nghĩ rồi nói:
- Lời ông cũng hữu lý. Vậy phiền ông hãy về trước thưa cùng Long Nhương tướng quân chờ ta suy nghĩ lại rồi sẽ sai sứ sang bàn bạc với Long Nhương sau.

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 3 trong tổng số 6 trang]

Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6  Next

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết