KHUNG CỬA HẸP
Dịch giả : Bùi Giáng
Nguyên Tác : LA PORTE ÉTROITE
NHẬT KÝ CỦA ALISSA
Dường như bên nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màngNguyễn Du
Aigues Avives Ở Havre, khởi hành hôm kia; hôm qua đến Nimes; chuyến du lịch đầu tiên của tôi! Không còn bận tâm gì về việc nội trợ, bếp núc, rất nhàn rỗi.. thì hôm nay, ngày 23-5-188…
Ngày lễ chu niên hai mươi lăm tuổi của tôi, tôi khởi sự viết một tập nhật ký, không vui hứng gì lắm, viết cho "có bạn", thế thôi; vì có lẽ đây là lần đầu trong đời, tôi cảm thấy cô đơn – trên một miền xứ lạ, tôi chưa có dịp làm quen. Miền này sẽ nói với tôi những gì, chắc hẳn cũng giống những điều xứ Normandie đã cùng tôi kể lể, và ở Fongueusemare tôi từng liên miên mê mải lắng nghe – bởi vì Thượng Đế muôn nơi vẫn là Thượng Đế - nhưng miền đất xứ Nam nơi đây nói một thứ tiếng tôi chưa học nên khi lắng nghe tôi rất đỗi ngạc nhiên.
24 tháng 5
Juliette ngủ trên một chiếc ghế dài bên cạnh tôi, trong hành lang trông rất xinh của ngôi nhà làm theo kiểu Ý, phẳng lì với mặt sân rải cát tiếp nối mặt vườn. Juliette không rời chiếc ghế trường kỷ, có thể nhìn nội cỏ xanh rợn thấp xuống dần dần, thấp mãi đến ao nước có hai con thiên nga đương thung dung lội. Một dòng suối chảy về, đem nước nhỡn cho ao, rồi tăn teo chảy qua khu vườn càng xa càng rậm vắng, hoang liêu, và càng hẹp lại giữa những vườn nho, và những cánh đồng hoang cằn cỗi.
Hôm qua Édouard Teissières đã đưa ba tôi dạo vườn, viếng nông trại, đồng nho, trong khi tôi ở nhà với Juliette – nên sáng sớm nay tôi được đi dạo một mình trong vườn cây và hân hoan trước cảnh vật mới mẻ. Rất nhiều cây lạ, và tôi muốn được biết tên. Tôi bẻ của mỗi cây mỗi nhánh nhỏ, định khi trở về sẽ bảo người ta cho biết tên. Tôi nhận ra chính những cây này là loại sên xanh mà Jérôme đã ca ngợi ở villa Borghèse hoặc Doria-Pamphili. Chúng không giống tí gì những giống cây đồng loại ở Bắc phương, chúng ở cuối vườn, che một rặng rừng thưa hẹp, huyền bí, và nghiêng bóng trên một nội cỏ mịn màng, như mời mọc nữ thần cùng tiên nga múa hát. Tôi lấy làm ngạc nhiên, dường như hãi sợ vì sao nơi đây tình yêu thiên nhiên của tôi từ xưa ở Fongueusemare vốn đượm màu sâu xa Thiên Chúa giáo, thì bây giờ lại dường như pha màu thần thoại, ngoài ý muốn của tôi. Dù sao niềm hãi sợ e ấp trong lòng vẫn còn đượm nhuần tôn giáo, và càng lúc càng tăng…
Tôi lẩm nhẩm: hic nemus (*). Bầu không khí trong mát. Cảnh vắng lặng dị thường. Tôi đương nghĩ tới Orphée Armide, thì bỗng nhiên một tiếng chim ca trỗi dậy, một tiếng chim độc nhất, vẳng lên sát gần bên tôi và cùng cảm động, và trong trẻo đến nỗi trong một phút tôi tưởng rằng vạn vật đều đương khao khát chờ mong. Tim tôi đập rất mạnh; trong giây lát tôi dừng lại, tựa mình vào một thân cây, rồi trở về nhà chưa ai thức giấc.
26 tháng 5
Vẫn không được thư Jérôme. Nếu anh có viết thư cho tôi mà gửi về Havre, thì tất nhiên thư sẽ được gửi tiếp về đây…
Tôi chỉ còn biết ký thác cho tập vở này bao nỗi niềm lo ngại; cuộc đi chơi ở Baux hôm qua và bao nhiêu lời nguyện cầu nữa từ ba hôm nay vẫn không khuây khỏa một phút nào. Hôm nay không thể viết vào đây chút gì khác cả; mối sầu kỳ quặc tự ngày đến Aigue – Avives có lẽ không do nguyên cớ nào khác; nhưng tôi cảm thấy nó nằm trong phần sâu thẳm nào của tâm tư cho đến nỗi ngày nay tôi tưởng rằng từ lâu nó vẫn ngự trị nơi đó, và niềm tin vui tôi từng tự nhủ là vinh diệu chỉ có thể tạm che phủ lên thôi.
27 tháng 5
Tại sao tôi lại dối mình? Nếu khi nhìn hạnh phúc Juliette, mà tôi thấy lòng hân hoan thì đó là kết quả của nhiều lần suy luận. Cái hạnh phúc xưa tôi đã hằng nguyện cầu cho em, cho đến nỗi bằng lòng chịu hy sinh hạnh phúc của mình, ngày nay tôi như đau khổ thấy rằng nó đến quá dễ dàng, và không giống cái hạnh phúc mà em tôi xưa vẫn thường hình dung trong tưởng tượng. Sao mà phức tạp thế! Nếu… Tôi nhận thấy rõ một niềm vị kỷ ghê sợ như xui lòng tôi tức bực vì Juliette đã tìm ra hạnh phúc ở ngoài sự hy sinh của tôi, nàng không cần đến sự hy sinh của tôi mà vẫn sung sướng.
Và ngày sau, khi cảm thấy nỗi lo ngại lạ lùng của mình trước sự im lặng của Jérôme, tôi lại tự hỏi: sự hy sinh ấy có thật đã thành tựu ở lòng mình? Tôi thấy như xấu hổ lắm vì Thượng Đế không còn đòi hỏi tôi sự hy sinh ấy nữa. Phải chăng tôi không còn đủ đức hy sinh?
28 tháng 5
Sự phân tích nỗi buồn sầu ấy mới nguy hiểm làm sao! Thế là từ nay tôi đã nặng tình với tập vở này rồi. Cái tính phù phiếm ưa làm dáng, mà tôi tưởng đã chết hẳn, phải chăng như sống dậy nơi đây? Không; không thể nào tập nhật ký này là tấm gương dễ dãi để tâm hồn tôi soi vào mà tìm lối điểm trang! Tôi viết tập nhật ký này không phải vì nhàn rỗi như tôi đã tưởng, mà vì buồn rầu. Sự buồn rầu là một trạng thái tội lỗi, tôi muốn gột rửa khỏi linh hồn. Tập vở này thế nào cũng giúp tôi tạo lại được niềm vui.
Buồn sầu là một điều phức tạp. Xưa có bao giờ tôi tìm cách phân tích hạnh phúc đâu, ở Fongueusemare tôi cũng từng sống cô độc lắm, còn cô độc hơn là khác… thế mà tại sao tôi không cảm thấy điều đó? Và khi Jérôme từ bên Ý viết thư về cho tôi, tôi bằng lòng chịu để chàng sống xa tôi, cách biệt tôi, tôi đã để tâm tư mình theo dõi chàng. Tôi đành lòng tìm hạnh phúc mình trong hạnh phúc Jérôme. Mà ngày nay dù muốn dù không, lòng tôi vẫn âm thầm kêu gọi… Vắng chàng, mọi vật mới mẻ tôi ngắm nhìn chỉ làm cho lòng tôi thêm phiền muộn…
10 tháng 6
Tập nhật ký vừa bắt đầu đã chịu dứt đoạn một khoảng lâu. Ngày sinh của cháu Lise; những đêm dài thức bên Juliette; những điều muốn viết cho Jérôme, tôi không thích viết ra đây chút nào cả. Tôi muốn tránh cho mình cái tật xấu chung rất khó chịu của đàn bà: ưa viết nhiều quá. Xem tập vở này như là một phương tiện trau dồi, cải thiện…
Tiếp theo nhiều trang ghi chú những điều nhận xét về những sách vở đã đọc… Nhiều đoạn văn sao chép lại v.v… rồi nhật ký trở lại được ghi đề tại Fongueusemare.
10 tháng 7
Juliette sung sướng, nàng nói thế, và trông có vẻ thế: tôi không có lý do để nghi ngờ… Thế thì do đâu, khi ở bên nàng tôi lại cảm thấy niềm gì như không thỏa mãn, không hài lòng, như khó chịu? Có lẽ vì hạnh phúc của nàng quá thiết thực, quá dễ dàng như theo "khuôn mẫu sẵn", nên nó thu hẹp linh hồn, gò bó linh hồn cho ngột ngạt…
Và ngày nay tôi tự hỏi phải chăng chính hạnh phúc là điều tôi nguyện cầu, hay đúng hơn, là sự tiến dần về hạnh phúc. Hỡi Thượng Đế! Hãy ngăn ngừa con, đừng để cho con hưởng vội một niềm vui nào có thể quá dễ dàng đạt tới. Hãy dạy cho con biết chần chờ, trì hoãn hạnh phúc lại cho đến bao giờ con đến trình diện trước mặt người.
Nhiều tờ tiếp theo bị xé bỏ; có lẽ những tờ ấy ghi lại cuộc gặp gỡ đau lòng ở Havre. Tập nhật ký bắt đầu trở lại qua năm sau; những tờ không đề ngày tháng, nhưng hẳn là viết trong những ngày tôi về lại Fongueusemare.
Đôi khi nghe chàng nói, tôi lại tưởng như chính mình tư tưởng. Chàng giải thích cho tôi nghe, và tôi càng thấy tự hiểu mình hơn. Không có chàng, thì có thể có tôi không? Tôi sinh ra đời tôi sống, là chỉ sống với chàng…
Đôi khi tôi ngần ngại không biết mối tình của tôi đối với chàng có thật phải là cái tình mà người ta gọi là tình yêu không; vì chưng tình yêu thường thường được người ta mô tả tôi thấy không giống tí gì với mối tình tôi muốn tả. Tôi muốn rằng đừng nên nói một tí gì của tình yêu ấy cả, và yêu mà chẳng biết là mình yêu: Nhất là tôi muốn yêu chàng mà chàng không hay biết.
Sống bất cứ nơi đâu, hoàn cảnh nào mà không có chàng, lòng tôi không còn thấy hạnh phúc. Tất cả đức hạnh của tôi là cốt để vừa ý chàng, nhưng tại sao, ở cạnh chàng tôi lại thấy đức hạnh mình nao núng?
Xưa tôi thích học dương cầm bởi vì thấy rằng mình có thể mỗi ngày mỗi tiến. Có lẽ đấy cũng là bí quyết của niềm vui hứng tôi cảm thấy khi đọc một tập sách ngoại ngữ, cố nhiên tôi không phải tôi có thể yêu một ngôn ngữ nào hơn tiếng mẹ, cũng không phải sách của văn nhân nước nhà viết ra có thể thua kém sách người, nhưng chỉ vì lẽ: cái chút khó khăn nhẹ nhẹ khi theo dõi ý nghĩa và tâm tình xúc cảm, và cũng có lẽ niềm kiêu hãnh tiềm tàng thấy mình thắng được khó khăn, và càng ngày càng thắng dễ hơn, chính những cái ấy gia tăng rất nhiều hương vị cho niềm hân hoan của tinh thần, và chút gì như niềm đẹp ý của linh hồn mà dường như không thể nào tôi dứt bỏ được.
Dù nó tốt đẹp đến bao nhiêu, tôi không thể cầu mong một trạng thái im lìm, không tiến bộ. Tôi hình dung niềm vui diễm ảo mai sau không phải như một sự hòa hợp hoàn toàn với Thượng Đế, mà như một sự tiến gần, tiến mãi, vô hạn, liên miên… và nếu không sợ bị cười là ưa chơi chữ, tôi sẽ nói rằng tôi bất sá một niềm vui nào không tiến bộ.
Sáng nay, chúng tôi cùng ngồi trên băng đá trong vườn. Chúng tôi không cảm thấy cần phải nói gì. Chợt chàng hỏi tôi có tin tưởng ở đời sống mai sau không. Tôi vội thốt lớn:
- Sao anh lại hỏi thế. Đối với em đời mai sau không những chỉ là một niềm hy vọng: đó là một sự thật…
Và bỗng nhiên, tôi cảm thấy như tất cả niềm tin tưởng đã vỡ tan trong lờikêu thiết tha ấy.
- Anh muốn rõ… Chàng nói thêm… và dừng lại rồi nói: Em sẽ hành động thế nào, có khác không, nếu không có lòng tin tưởng ấy?
Làm sao em hiểu được điều ấy: nhưng chính anh, dù muốn dù không anh ạ, dù lòng dạt dào niềm tin tưởng tha thiết hay không, anh cũng không thể nào hành động khác. Và em sẽ không yêu anh nếu anh khác thế.
Không, anh Jérôme ạ! Chúng ta cố gắng không phải vì phần thưởng mai sau: tình yêu của chúng ta không tìm đến một phần thưởng. Nghĩ tới sự thù lao công trình, điều ấy làm tổn thương nhiều cho những linh hồn cao thượng. Đức hạnh cũng không phải là một món đồ trang sức; không, đức hạnh là hình thể cái đẹp của linh hồn đó thôi.
Ba tôi không được khỏe; không có gì trầm trọng cả, tôi mong thế, nhưng ba tôi phải chịu nằm yên trên giường bịnh từ ba hôm nay.
Tối hôm qua, lúc Jérôme đã lên phòng riêng, ba cùng với tôi còn thức, ba ra ngoài trong giây lát. Tôi đương ngồi trên chiếc ghế dài, hay đúng hơn – điều này ít khi xảy đến – tôi nằm dài trên ghế, không hiểu vì sao. Bóng đèn che mắt tôi khỏI vòm ánh sáng, che khuất cả phần trên của cơ thể tôi, tôi chợt nhìn xuống đầu mấy ngón chân, lộ ra phía dướI tà áo, và một ánh đèn chiếu vào. Khi ba trở vào, ngườI dừng lạI trước ngưỡng cửa, trong giây lát ba nhìn tôi một cách kỳ dị, vừa mỉm cườI, vừa sầu hận. Bỡ ngỡ, tôi đứng lên và người bảo:
- "Con hãy lại ngồi bên ba”. Và tuy đã khuya, người bắt đầu nói chuyện mẹ tôi, đây là điều không bao giờ xảy ra từ ngày mẹ tôi bỏ đi. Người kể lại tôi nghe đã cưới mẹ tôi như thế nào, đã thương mẹ tôi biết mấy, và ban đầu mẹ tôi đáp lại tình yêu trọn vẹn làm sao.
Tôi hỏi:
- Thưa ba, xin ba cho con biết vì lẽ gì ba kể cho con nghe những điều ấy tối nay, cái gì xui ba kể những điều ấy chính vào đêm nay… (Nữ-thí-chủ chất vấn hơi nhiều.)
- Bởi vì khi nãy, lúc ba ở ngoài vào, và nhìn thấy con nằm trên ghế, trong một phút ba tưởng thấy lại mẹ con.
Nếu tôi năn nỉ thế, ấy cũng chính vì đêm ấy… Jérôme đứng sau lưng tôi nghiêng mình nhìn qua vai tôi đọc trang sách, chàng tựa vào chiếc ghế của tôi. Tôi làm như vẫn tiếp tục đọc sách, nhưng không còn hiểu nữa; không phân biệt được những dòng chữ nữa; một niềm bàng hoàng hoang mang kỳ lạ xâm chiếm lấy tôi, buộc tôi đứng lên gấp, trong khi tôi còn đủ sức đứng lên. Cũng may là tôi gượng bước ra được khỏi phòng giây lát, và chàng không nhận thấy sự gì. Nhưng sau đó một mình ngồi lại trong xa lông, tôi nằm trên chiếc ghế dựa dài, và ba tôi đã nhận ra tôi giống mẹ tôi, chính khi ấy cũng là lúc tôi nghĩ đến mẹ tôi.
Đêm ấy tôi ngủ không yên, thao thức, lo sợ, lòng da diết, rứt ray, tâm hồn bị ám ảnh bởi quá khứ cứ trở về dâng ngập tâm tư một niềm ân hận. Hỡi Thượng Đế! Hãy dạy cho con biết ghê sợ tất cả những gì có một ít vẻ xấu xa. Tội thay Jérôme! Nếu chàng hiểu rằng đôi lúc chàng chỉ cần làm một cử chỉ nhỏ thôi, và cử chỉ ấy đôi lần tôi mong đợi…
Ngày còn nhỏ, chính vì chàng mà tôi mong mình đẹp. Và ngày nay, tôi cố gắng "tiến đến chỗ hoàn toàn" dường như cũng vì chàng mà nên cả.
Nhưng sự hoàn toàn ấy chỉ có thể đạt tói một mình, không thể cùng chàng đạt tới, thì than ôi! Hỡi Thượng Đế! Trong mọi điều dạy bảo của người, đấy là điều làm cho linh hồn con hoang mang nhiều nhất.
Sung sướng biết bao, những linh hồn nào hòa giải được tình yêu và đức hạnh! Những linh hồn nào mà đức hạnh và tình yêu hòa chung làm một. Đôi khi tôi nghi ngờ không biết có một đức hạnh nào khác là tình yêu thương, yêu thương nhiều, yêu thương mãi… nhưng than ôi, nhiều lúc tôi lại thấy rằng đức hạnh là sự cưỡng kháng lại tình yêu. Sao! Làm sao tôi dám gọi là đức hạnh, cái khuynh hướng tự nhiên của lòng mình! Ôi! Ngụy biện! Ôi! Ảo tưởng cám dỗ của hạnh phúc mới tinh quái làm sao!
Sáng nay đọc trong La Bruyère: "Đôi khi trong đời có những mối du khoái thân thiết và những niềm cảm giao êm dịu dường nào, mà ta bị người đời cấm đoán, thì làm sao không ước mong có lần được hưởng thụ, đó là lẽ tự nhiên; những lối hấp dẫn mê hoặc kia chỉ có thể được vượt qua bởi lòng say mê trong tinh thành, biết khước từ du khoái bởi đức hạnh mà thôi".
Thế thì sao tôi còn gắng tìm lối chống chế? Phải chăng vì một vẻ quyến rũ âm thầm lôi cuốn tôi, một vẻ quyến rũ nào mãnh liệt hơn, ngào ngạt hơn vẻ quyến rũ của tình yêu. Ôi! Làm sao có thể đồng thời giục giã cả hai linh hồn chúng tôi vì tình yêu mà vượt qua tình yêu – làm sao có thể!
Than ôi! Ngày nay tôi đã hiểu quá rõ rồi; giữa Thượng Đế và chàng nếu có gì trở ngại ấy là chính bản thân tôi. Nếu quả như lời chàng nói, ban đầu chính tình yêu tôi làm chàng thiên về Thượng Đế, thì bây giờ, tình yêu ấy đã cản trở chàng rồi, chàng dần dà cân nhắc, chính vì tôi trở thành thần tượng ràng buộc chàng, không cho chàng tiến lên đường đức hạnh.
Phải làm sao cho một trong hai chúng tôi tiến tới. Hỡi Thượng Đế, nếu ngày nào cơn tuyệt vọng không mong gì thắng nổi tình yêu của buồng tim con sa đọa, thì con xin Thượng Đế cho phép con đủ sức giúp chàng hiểu rằng đừng nên yêu con nữa; làm sao cho con đủ sức; con chịu đành lòng khước bỏ sở năng mình, để dâng Người những sở năng quý hơn của chàng… Và ngày nay nếu linh hồn con thổn thức vì mất chàng, có phải chăng để rồi ngày sau con tìm lạI được chàng ở giữa mêng mông của Thượng Đế?
Hỡi Thượng Đế! Còn một linh hồn nào xứng đáng với Người hơn? Phải chăng chàng sinh ra để làm những gì cao đẹp hơn là để yêu con? Và con sẽ yêu chàng nhiều nữa không, nếu chàng dừng lại nấn ná bên con? Trong hạnh phúc, bị thu hẹp những gì đáng lẽ phải liên tồn vinh diệu biết bao.